các phương thức trần thuật
Các phương thức biểu đạt: 1. Tự sự. Phương thức biểu đạt tự sự là phương thức trình diễn các sự việc (sự kiện) có quan hệ nhân quả tới kết quả. (diễn biến sự việc) Thể loại – Bản tin tạp chí – Bản tường thuật, tường trình
3.4 Các phương thức làm thay đổi điểm nhìn; 3.4.2 Lời thoại dẫn trực tiếp, gián tiếp hoặc trực tiếp tự do, gián tiếp tự do; 3.4.3 Các phương thức khác như nhật ký, thư từ; CHƯƠNG 4. THỜI GIAN TRONG TRUYỆN NGẮN CÁC NHÀ VĂN NỮ ; 4.1 Dẫn nhập: 4.2 Tính chất thời gian
CÁC PHƯƠNG PHÁP RA QUYẾT ĐỊNH ĐA THUỘC TÍNH VỚI THÔNG TIN MỜ Chuyên ngành : Công nghệ thông tin LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT Công nghệ thông tin NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS. Trần Đình Khang Hà Nội – Năm 2015 Các phương pháp ra quyết định đa thuộc tính với thông tin mờ
1. Khái niệm câu trần thuật (Declarative) trong tiếng Anh. Câu trần thuật (Declarative sentence) là một trong bốn kiểu câu trong tiếng Anh, cùng với câu nghi vấn, câu cảm thán và câu mệnh lệnh. Mỗi loại câu có chức năng riêng; trong đó chức năng của câu trần thuật là c ung cấp
Chi tiết các phương thức như sau: - Phương thức 1: xét tuyển theo kết quả quá trình học tập bậc THPT (50% chỉ tiêu). - Phương thức 2: xét tuyển theo kết quả thi tốt nghiệp THPT năm 2022 (khoảng 25% chỉ tiêu). - Phương thức 3: ưu tiên xét tuyển theo quy định riêng của Trường
Site De Rencontre Gratuit Non Payant Sans Inscription. /Văn học /Câu trần thuật Khái niệm và cách sử dụng chi tiết nhất Câu trần thuật là gì? Viết câu trần thuật như thế nào cho chuẩn và chính xác. Cùng tìm hiểu các ví dụ về câu trần thuật ngay nhé! Khái niệm câu trần thuậtChức năng và dấu hiệu nhận biết câu trần thuậtChức năng của câu trần thuậtCâu trần thuật có cấu tạo như thế nào?Cần lưu ý những gì khi viết câu trần thuật?Cách đặt câu trần thuậtVí dụ về câu trần thuậtTrong giao tiếpTrong văn học Khái niệm câu trần thuật Câu trần thuật là các kiểu văn bản và phương thức biểu đạt, được sử dụng dưới hình thức kể, miêu tả, nhận xét, thông báo hay nhận định,… về một sự vật hiện tượng, hoạt động hoặc tính chất của sự việc nào đó. Hiểu đơn giản, đây là kiểu câu được xem là câu tường thuật lại một vấn đề nào đó. Một vài ví dụ cơ bản về câu trần thuật được thể hiện như sau – Hôm nay tôi đi học. – Tôi thường giúp mẹ nấu cơm chiều. Câu trần thuật là câu dùng để miêu tả, tường thuật một sự vật hiện tượng nào đó Chức năng và dấu hiệu nhận biết câu trần thuật Chức năng của câu trần thuật Có thể đề cập đến chức năng chính của câu trần thuật là nhằm kể lại, tường thuật lại một sự việc hoặc một câu chuyện nào đó. Ngoài ra, kiểu câu này còn được dùng để yêu cầu, ra lệnh hoặc bày tỏ tình cảm, thái độ,… tuy nhiên, trường hợp sử dụng này lại không nhiều. Câu trần thuật có cấu tạo như thế nào? Kiểu hình thức dễ nhận biết, cơ bản và thông thường nhất của dạng câu này là thường kết thúc bằng dấu chấm ở cuối câu. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, câu trần thuật cũng có thể kết lại bằng dấu chấm than hoặc dấu ba chấm. Trên thực tế, câu trần thuật là câu được sử dụng thường xuyên nhất trong giao tiếp hằng ngày cũng như trong văn chương. Cần lưu ý những gì khi viết câu trần thuật? Những đặc điểm của kiểu câu này được khái quát như sau – Kiểu câu này được dùng để tường thuật, mô tả hay trình bày một sự việc, câu chuyện hay kể lại toàn bộ những sự việc có thể đã qua chứng kiến. Như vậy, không nên nghe từ nhiều nguồn khác nhau để có thể sử dụng câu trần thuật sao cho khái quát nhất. – Về cơ bản, câu trần thuật không có nhiều đặc điểm về hình thức như các kiểu câu nghi vấn, cầu khiến hoặc cảm thán. Cách đặt câu trần thuật Trước khi đi đến các vấn đề về việc đặt câu sao cho chuẩn xác, điều đầu tiên bạn cần lưu ý đảm bảo là hình thức trình bày của câu, tức là viết hoa chữ cái đầu câu, kết câu bằng dấu chấm, chấm lửng hoặc chấm than. Để có thể đặt câu trần thuật theo mục đích một cách nhanh và chính xác, bạn có thể tham khảo một số cách như sau – Nhằm mục đích xin lỗi Tôi thật sự xin lỗi vì những gì đã xảy ra. – Nhằm mục đích cảm ơn Cảm ơn cậu vì đã cho tớ mượn bút. – Nhằm mục đích miêu tả Cây đa trước cổng làng là nơi nghỉ chân của phần lớn người dân nơi đây. – Nhằm mục đích chúc mừng Chúc mừng sinh nhật bạn thân của tôi. Bạn cũng có thể xác định kiểu câu này thông qua việc xác định thành phần chủ chốt của câu, một câu không nhất thiết phải có tiền tố hoặc hậu tố nhưng bạn cần đảm bảo thành phần chính trong câu, tức là bạn cần chú ý đặc biệt đến việc đặt câu có nghĩa, có đầy đủ cả chủ ngữ lẫn vị ngữ. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, bạn cũng cần bổ sung thêm các thành phần khác cho câu để câu không quá thô cứng; chú ý kết hợp với các phương tiện tu từ khác để câu có thể sâu sắc và giàu hình ảnh, giàu biểu cảm hơn. Đặt câu trần thuật cần lưu ý đến hình thức trình bày cũng như xác định các yếu tố về mục đích và các thành phần khác trong câu Ví dụ về câu trần thuật Trong giao tiếp Đây là kiểu câu được sử dụng rất phổ biến trong giao tiếp, vậy nên có thể dễ dàng sử dụng và bắt gặp trong cuộc sống hàng ngày, tiêu biểu là các câu như sau – Hôm qua nhà em mưa ngập nước phải phụ mẹ nên không thể làm bài tập ạ! – Chị em là giáo viên cấp hai. – Tuần sau nhóm bạn của tôi đi du lịch ở Hội An. Trong văn học Ví dụ Ôi Tào Khê! Nước Tào Khê làm đá mòn đấy! Nhưng dòng nước Tào Khê không bao giờ cạn chính là lòng chung thủy của ta!” Ví dụ trên thường bị nhầm lẫn thành câu cảm thán, tuy nhiên, trên thực tế, đây là những câu trần thuật ghép lại thành một đoạn nhằm miêu tả về tào khê. Câu trần thuật là kiểu câu rất phổ biến trong giao tiếp và trong văn học Trên đây là các kiến thức khái quát về câu trần thuật. Hy vọng, những kiến thức chia sẻ sẽ giúp ích cho việc học tiếng Việt của bé. Cảm ơn bạn đã theo dõi bài viết.
Ôn tập Ngữ văn lớp 8VnDoc xin giới thiệu bài Đặc điểm hình thức và chức năng của câu trần thuật được chúng tôi sưu tầm và tổng hợp nhằm giúp các bạn học sinh cùng quý thầy cô tham khảo để chuẩn bị cho bài học sắp tới đây của môn Ngữ văn lớp ý Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài Đặc điểm hình thức và chức năng của câu trần thuật1. Câu trần thuật là gì?2. Đặc điểm của câu trần thuật3. Chức năng của câu trần thuật 4. Cách đặt câu trần thuậtCâu hỏi Em hãy nêu đặc điểm hình thức và chức năng của câu trần thuật?Lời giải Đặc điểm hình thức của câu trần thuật Nên sử dụng câu trần thuật để mô tả, tường thuật hay trình bày một sự việc, câu chuyện hay bản khai toàn bộ những sự việc mà mình đã chứng kiến qua trực tiếp. Không nên nghe từ nhiều nguồn khác nhau mà áp dụng vào câu trần thuật sẽ ảnh hưởng đến kết trần thuật không có nhiều đặc điểm về hình thức như các loại câu câu nghi vấn, cầu khiến, cảm thúc câu trần thuật thường sử dụng dấu chấm, trong một số trường hợp để nhấn mạnh ý nghĩa câu nói có thể sử dụng dấu chấm than hoặc dấu chấm lửng. Những chức năng của câu trần thuật + Câu trần thuật có chức năng chính dùng để kể, thông báo, nhận định, miêu tả,…+ Ngoài ra, câu trần thuật còn có thể dùng để yêu cầu đề nghị hay để bộc lộ tình cảm. Tuy nhiên đây không phải là chức năng chính của câu trần thuật. Nên khi sử dụng câu trần thuật với mục đích này cần tránh nhầm lẫn với các kiểu câu Câu trần thuật là gì?Câu trần thuật là loại câu được sử dụng để kể lại một câu chuyện, mô tả, tường thuật, trình bày, khai báo, thông báo hay nhân định một việc, câu chuyện, hoạt động, trái thái và tính chất trong thực tế. Trong văn viết thì câu trần thuật nên viết theo đúng thực tế những thì mình nhìn thấy được, còn trong văn nói thì giọng điệu bình thường và kết thúc câu nên sử dụng dấu giao tiếp, câu trần thuật thường được nói với giọng bình thường hoặc có thể xen các từ ngữ biểu cảm nhưng mục đích của câu trần thuật không thay đổi. Nhìn chung mục đích thường sử dụng nhất của câu trần thuật là dùng để kể. Vì vậy, câu trần thuật còn được gọi là câu kể. Ví dụ - Trên bàn, có một lọ Bên ngoài khung cửa, cánh đồng lúa chín vàng tỏa hương thơm Đường phố đông nghịt vào giờ cao Đặc điểm của câu trần thuậtĐể sử dụng câu trần thuật đúng lúc, đúng hoàn cảnh chúng ta cần nắm vững những đặc điểm chính sau- Nên sử dụng câu trần thuật để mô tả, tường thuật hay trình bày một sự việc, câu chuyện hay bản khai toàn bộ những sự việc mà mình đã chứng kiến qua trực tiếp. Không nên nghe từ nhiều nguồn khác nhau mà áp dụng vào câu trần thuật sẽ ảnh hưởng đến kết Câu trần thuật không có nhiều đặc điểm về hình thức như các loại câu câu nghi vấn, cầu khiến, cảm Kết thúc câu trần thuật thường sử dụng dấu chấm, trong một số trường hợp để nhấn mạnh ý nghĩa câu nói có thể sử dụng dấu chấm than hoặc dấu chấm Chức năng của câu trần thuật Câu trần thuật có một số tính năng chính đặc trưng sau- Câu trần thuật thường không có dấu hiệu giúp người dùng nhận biết, vì vậy nên đọc kỹ đoạn văn để phân tích và đưa ra kết luận. Dấu hiệu đơn giản nhất là cuối câu trần thuật thường dùng dấu Là loại câu được sử dụng phổ biến nhất trong văn xuôi, văn viết, tiểu thuyết hay văn dài…- Chức năng chính của câu trần thuật là kể hay tường thuật lại câu chuyện đã xảy ra trong quá khứ hoặc hiện tại. Câu chuyện này là có thật và được kể lại có thể khác nhau tùy vào người viết khi nhìn nhận vấn đề khác Nó còn dùng để yêu cầu, bộc lộ cảm xúc của người viết về một sự Cách đặt câu trần thuậtĐể đặt câu trần thuật có thể tham khảo các bước sauBước 1 Xác định mục đích đặt câu để lựa chọn kiểu câu cho phù 2 Lựa chọn kiểu câu trần thuật cho phù hợp. Kiểu câu trần thuật đơn có từ “là” thường dùng để giới thiệu là chính. Kiểu câu trần thuật đơn không có từ “là” được dùng để miêu tả, thông 3 Xác định cụm chủ vị nòng 4 Bổ sung các thành phần phụ như trạng ngữ, phụ chú,…Bước 5 Viết câu đảm bảo hình thức câu mở đầu bằng chữ cái viết hoa, kết thúc bằng dấu câu.Bước 6 Đọc lại và chỉnh sửa nếu nội dung bài Đặc điểm hình thức và chức năng của câu trần thuật các bạn học sinh cùng quý thầy cô cần nắm vững kiến thức về khái niệm,đặc điểm và các chức năng của câu trần thuật trong văn bản...Trên đây VnDoc đã giới thiệu nội dung bài Đặc điểm hình thức và chức năng của câu trần thuật. Ngoài ra các bạn có thể tham khảo thêm một số chuyên mục Lý thuyết môn Ngữ Văn 8, Soạn bài lớp 8, Văn mẫu lớp 8, Giải Vở bài tập Ngữ Văn 8, Soạn văn 8 siêu ngắn.
Phương thức trần thuật trong Vợ chồng A Phủ, Vợ Nhặt, Rừng xà Nu, Những đứa con trong gia đình, Chiếc thuyền ngoài xa Ngữ văn 12.I. Các phương thức trần Phương thức trần thuật trong tác phẩm Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Phương thức trần thuật trong Vợ chồng A Phủ, Vợ Nhặt, Rừng xà Nu, Những đứa con trong gia đình, Chiếc thuyền ngoài xa Ngữ văn 12. I. Các phương thức trần thuật. 1. Trần thuật từ ngôi thứ nhất do nhân vật tự kể chuyện lời trực tiếp. 2. Trần thuật từ ngôi thứ ba của người kể chuyện tự giấu mình. 3. Trần thuật từ ngôi thứ ba của người kể chuyện tự giấu mình, nhưng điểm nhìn và lời kể lại theo giọng điệu của nhân vật trong tác phẩm lời nửa trực tiếp. II. Phương thức trần thuật trong tác phẩm truyện. 1. Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. – Thành công của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ không những ở mặt nội dung mà còn ở mặt nghệ thuật. Một trong những phương diện quan trọng về mặt nghệ thuật cần được đề cập đến chính là phương thức trần thuật. Trong tác phẩm tự sự, trần thuật là thành phần lời nói của tác giả, người trần thuật. Có thể thấy phương thức trần thuật của tác phẩm Vợ chồng A Phủ được thể hiện ở những điểm sau – Phương thức trần thuật được thể hiện ở ngôi kể và giọng điệu. + Người kể ở ngôi thứ ba, hóa thân vào nhân vật. + Nhịp kể chậm, giọng trầm lắng, đầy sự cảm thông, thương cảm đối với nhân vật chính. Giọng trần thuật nhiều chỗ hòa vào dòng ý nghĩ và tiếng nói bên trong nhân vật tạo ra sự đồng cảm giữa người kể và nhân tình tiết truyện liên tục biến đổi, hấp dẫn mà không hề bị rối nhờ sự đan xen giữa hiện tại và quá khứ. + Giọng trần thuật của truyện hòa nhập tư tưởng truyện và nội dung của từng đoạn. – Ngôn ngữ kể chuyện đậm văn hóa vùng miền, biểu hiện + Khung cảnh mùa xuân được diễn tả thật sinh động. + Cảnh xử kiện đối với A Phủ diễn ra ở nhà thống lý Pá Tra. – Phương thức trần thuật được thể hiện trong việc xây dựng nhân vật. + Cách giới thiệu khéo léo, ngắn gọn mà gây ấn tượng mạnh về lai lịch của nhân vật. + Nhân vật Mỵ rất ít hành động nhưng hành động của nhân vật lặp đi lặp lại như điệp khúc. + Chân dung nhân vật được khắc họa gây ấn tượng lắng đọng cúi mặt, mặt buồn, mặt buồn rười rượi, lùi lũi,…. – Phương thức trần thuật còn được thể hiện ở yếu tố thời gian. + Thời gian thực tế gắn liền với thời gian trần thuật đã góp phần không nhỏ trong việc khai thác diễn biến nội tâm của nhân vật. Điều này được thể hiện khá rõ ở Đêm tình mùa xuân, đêm đông Mỵ cởi trói cứu A Phủ. +Chính yếu tố thời gian này giúp người đọc dễ dàng nhận ra câu chuyện được kể theo phương pháp lắp ghép với một trình tự nhất định cho phép nhà văn đi sâu vào nội tâm nhân vật. – Phương thức trần thuật còn được thể hiện ở sự tương tác giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật. + Giới thiệu nhân vật. + Miêu tả chân dung. + Ngoại cảnh tái hiện tâm trạng nhân vật. + Đối thoại, độc thoại. 2. Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. – Tác phẩm “Vợ nhặt”, ngoài cách xây dựng tình huống truyện độc đáo thì phương thức trần thuật của Kim Lân cũng không kém phần hấp dẫn. Có thể nói nghệ thuật kể chuyện tự nhiên mà hấp dẫn. – Cách dẫn dắt câu chuyện tự nhiên, giản dị mà chặt chẽ. Kim Lân đã chọn phương thức trần thuật khách quan theo tâm lý nhân vật + Mở đầu tác phẩm là cảnh Tràng đưa người vợ nhặt về nhà trước sự ngạc nhiên của mọi người. + Trong sự ngạc nhiên của mọi người và bản thân, Tràng nhớ lại câu chuyện nhặt được vợ. + Tiếp đó mạch tự sự chảy xuôi cho đến thời điểm kết thúc. Với mạch tự sự theo diễn biến tâm lý nhân vật, Kim Lân đã tạo cho tác phẩm một mạch trần thuật rất tự nhiên hấp dẫn. Có thể nói dạng cấu trúc trần thuật này đã góp phần rất lớn vào việc biểu hiện ý nghĩa nhân văn của tác phẩm Cuộc sống khủng khiếp đến mức khiến con người nghĩ rằng mình không thể có được hạnh phúc ngay cả khi nó trở thành hiện thực. – Ngôn ngữ kể chuyện mộc mạc, giản dị, gắn với khẩu ngữ nhưng được chắt lọc kỹ lưỡng. Do đó tạo được sức gợi đáng kể. 3. Truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành. Phương thức trần thuật trong tác phẩm thể hiện qua một số khía cạnh sau – Cốt truyện Truyện “Rừng xà nu” có 2 câu chuyện đan cài vào nhau Chuyện về cuộc đời Tnú và chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô-Man. + Câu chuyện được kể như là một hồi tưởng trong một đêm Tnú được nghỉ phép về thăm làng. Đây chính là hồi tưởng của cụ Mết và hồi ức của Tnú. Tiếng cụ Mết vẫn trầm và nặng. Ông cụ vụng về trở tay lau một giọt nước mắt. Bỗng nhiên ông cụ nói to lên Tnú không cứu được vợ con. Tối đó Mai đứa con thì đã chết lính to béo đánh một cây sắt vào ngang bụng nó, lúc mẹ nó ngã xuống, không kịp che cho nó. Nhớ không, Tnú, mày cũng không cứu sống được vợ mày. Còn mày thì chúng nó bắt mày, trong tay mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nó trói mày lại… + Chuyện đời Tnú được cụ Mết kể bên bếp lửa nhà ưng cho dân làng nghe. – Quan điểm người kể chuyện có sự đan xen giữa quan điểm tác giả và quan điểm nhân vật + Đoạn mở đầu kể theo quan điểm của tác giả. + Phần sau tác giả trao quyền kể lại cho nhân vật cụ Mết, cụ Mết đã kể lại toàn bộ câu chuyện về cuộc đời Tnú cho dân làng nghe. – Cách kể trang trọng như muốn truyền cho các thế hệ con cháu những trang sử thi oai hùng của cả cộng đồng trong những ngày Đồng Khởi “Ông già bà già thì biết rồi. Thanh niên có đứa biết đứa chưa rõ. Còn lũ con nít thì chưa biết… Tnú, anh Tnú của chúng mày về rồi đó… anh Tnú mà tau đã kể cho chúng mày nghe bao nhiêu lần rồi đó… Đêm nay tau kể chuyện nó cho cả làng nghe, để mừng nó về thăm làng. Người Strá ai có cái tai, ai có cái bụng thương núi, thương nước, hãy lắng mà nghe, mà nhớ. Sau này tau chết rồi, chúng mày phải kể lại cho con cháu nghe…”. – Giọng trần thuật gợi nhớ lối kể “khan” trường ca của các dân tộc Tây Nguyên. + Bên bếp lửa dưới mái nhà ưng. + Câu chuyện của Tnú là chuyện thời hiện đại nhưng vẫn được kể như câu chuyện lịch sử với giọng điệu và ngôn ngữ trang trọng của sử thi, với thái độ chiêm ngưỡng qua một “khoảng cách sử thi” đối với những con người và sự kiện được kể lại. – Điều đó đã thể hiện chất sử thi hùng tráng của câu chuyện. + Nghệ thuật xây dựng truyện “Rừng xà nu” là một truyện ngắn nhưng có sức chứa như một bản trường ca về chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Tây Nguyên được viết khoảng mươi trang bằng nghệ thuật độc đáo. Các yếu tố truyện càng lúc càng mở rộng tạo ấn tượng sâu sắc cho người đọc. – Rừng xà nu có hai câu chuyện lồng vào nhau, với nhiều tình tiết, sự kiện được diễn ra trong một khoảng thời gian khá dài. Để dồn chứa một dung lượng khá lớn như vậy vào một truyện ngắn, tác giả đã lựa chọn cách kể hợp lí câu chuyện của một đời người, một làng được kể kể trong một đêm, qua lời kể của một già làng. Cách kể chuyện ấy rất thích hợp với nội dung và tính chất của truyện, lại gợi liên tưởng đến cách kể khan của các dân tộc Tây Nguyên. Đây cũng chính là một đặc điểm về nghệ thuật tự sự, yếu tố quan trọng tạo nên thành công tác phẩm. – Ở phần đầu và cuối truyện là thời gian hiện tại gắn với sự việc Tnú về thăm làng chỉ trong một đêm và sáng hôm sau lại ra đi. Phần giữa, cũng là phần chính của truyện, chủ yếu tái hiện lại những sự việc thuộc thời gian quá khứ. Nhưng đôi lúc mạch kể lại quay lại quay lại hiện tại bằng việc miêu tả cảnh dân làng nghe cụ Mết kể về chuyện Tnú, cùng những lời trực tiếp của cụ Mết, của Tnú. Cách phối hợp các lớp thời gian như vậy làm cho truyện mở ra được nhiều sự kiện, biến cố, tái hiện được cả một giai đoạn lịch sử trong một dung lượng câu chữ không lớn cua một truyện ngắn. Đồng thời lại kéo gần quá khứ về với thời gian hiện tại, giúp người đọc hình dung một cách cụ thể, sinh động về những sự việc và con người được kể như đang hiện diện trước mắt. – Phù hợp với thời gian như trên, truyện sử dụng phối hợp điểm nhìn của hai người kể chuyện người kể chuyện ở ngôi thứ ba vô hình và người kể là cụ Mết. Trong phần chính của truyện, lời kể ở ngôi thứ ba lại nương theo câu chuyện về Tnú do cụ Mết kể cho dân làng nghe, xen kẽ với những lời trực tiếp của cụ Mết. Lời cụ Mết thường chỉ để khởi đầu cho mỗi chặng, dẫn mạch kể ở những biến cố tạo bước ngoặt. 4. Truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi. – Với tác phẩm Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi đã chọn phương thức trần thuật men theo dòng hồi tưởng của nhân vật Việt – một chiến sĩ trẻ bị thương nặng trên chiến trường, bị lạc đồng đội, nhiều lần ngất đi tỉnh lại. Nghĩa là tác giả đã trao ngòi bút cho nhân vật tự kể, dựa theo điểm nhìn của nhân vật. – Chọn cách trần thuật này vừa thể hiện sự sáng tạo về hình thức nghệ thuật vừa góp phần đắc lực trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm. + Thứ nhất, vì câu chuyện được kể theo những kí ức chợt đến chợt đi, nhớ chuyện này lại xen lẫn chuyện kia nên trật tự kể bị xáo trộn. Vách ngăn giữa các khoảng thời gian quá khứ và hiện tại dường như bị cất bỏ. Song câu chuyện vẫn rõ ràng mạch lạc. Người đọc không chỉ cảm nhận được một nhân vật Việt mà còn cảm nhận cả truyền thống gia đình nông dânNam bộ. Đó là chú Năm, ba má, chị Chiến và cả đồng đội của Việt nữa. Tỉnh dậy lần thứ nhất, Việt bò đi tìm đồng dậy lần thứ hai, trời mưa, tiếng ếch nhái kêu, Việt nhớ chuyện soi ếch “…bao giờ chú Năm cũng qua”. Thế là Việt nhớ về chú Năm và cuốn sổ gia đình. Lần ba, Việt nghe tiếng trực thăng, tiếng súng nổ, anh nhận ra mình đã ba ngày nằm tại chiến trường. Nghe tiếng cu gù gù, chiếc ná thun hiện về, gợi anh nhớ những kỉ niệm về người mẹ bao dung, vị tha, khổ đau, hiên ngang, bất khuất. Lần thứ tư, mẹ vẫn còn thoảng trong đầu…mưa làm Việt tỉnh hẳn, nhận ra mình đơn độc. Việt sợ ma. Súng nổ âm ĩ, Việt nhớ anh Tánh và đồng đội. Việt cố bò đi về phía tiếng súng nhưng cũng không khó bằng chuyện hai chị em dành nhau đi tòng quân… Câu chuyện thật hợp lí, lôgic. + Thứ hai, khi để cho nhân vật tự kể, câu chuyện trở nên hấp dẫn, chân thực về những đứa con trưởng thành trong khói lửa chiến tranh. Việt vừa là anh giải phóng quân gan dạ, dũng cảm vừa là cậu thanh niên còn rất trẻ con, vô tư… + Thứ ba, nhà văn để nhân vật tự kể, trang văn đậm chất trữ tình. Đời sống nội tâm của nhân vật được khai thác triệt để vừa cụ thể vừa tinh tế, phức tạp… + Thứ tư, nhân vật được đặt trong một tình huống đặt biệt đơn độc giữa chiến trường, đối diện với cái chết, đối diện với chính bản thân mình, Việt đã nghĩ nhiều nhất đến những người thân trong gia đình. Bởi gia đình là nguồn cội, là cứu cánh, là chỗ dựa tinh thần để con người vượt qua những trở lực của nghịch cảnh để hướng về phía trước. Qua đó nhà văn khẳng định sự gắn bó giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền thống dân tộc tạo nên sức mạnh to lớn của con người ViệtNam, dân tộc Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. – Nhờ những lợi thế của cách trần thuật như đã nói trên, câu chuyện về đề tài chiến tranh đã thể hiện rõ tài năng nhiều mặt của Nguyễn Thi. Và tác phẩm Những đứa con trong gia đình trở thành tác phẩm xuất sắc. – Tác dụng của phương thức trần thuật này + Làm cho câu chuyện dù không có gì đặc sắc cũng trở nên mới mẻ, hấp dẫn. Tác phẩm đậm chất trữ tình, tự nhiên vì được kể bằng con mắt, tấm lòng và ngôn ngữ, giọng điệu của nhân vật. + Tạo điều kiện cho nhà văn thâm nhập sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để dẫn dắt câu chuyện. + Diễn biến câu chuyện linh họat, không phụ thuộc vào trật tự thời gian tự nhiên, có thể xáo trộn không gian với thời gian, từ những chi tiết ngẫu nhiêncủa hiện thực chiến trường mà gợi nên những dòng hồi tưởng, liên tưởng phong phú , bất ngờ song vẫn hợp lý quá khứ khi gần, khi xa, chuyện này bắt sang chuyện nọ… → Trần thuật theo dòng hồi tưởng khiến câu chuyện về Những đứa con trong gia đình vốn được hình thành từ chuỗi những chuyện tưởng chừng như rời rạc, vụn vặt …à trở nên mạch lạc, sáng rõ. Các nhân vật hiện lên vừa cụ thể rõ nét; vừa tiêu biểu cho những thế hệ người nông dân Nam Bộ và cho cả dân tộc ta trong kháng chiến chống ngoại xâm… 5. Truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. – Chiếc thuyền ngoài xa là truyện ngắn xuất sắc của Nguyễn Minh Châu tiêu biểu cho hướng tiếp cận đời sống nhìn từ góc độ thế sự của nhà văn ở giai đoạn sáng tác sau 1975. Sở dĩ tác phẩm có được thành công ấy không chỉ ở nội dung sâu sắc mà còn ở những yếu tố nghệ thuật đặc sắc sáng tạo tình huống truyện mang tính chất khám phá phát hiện kết hợp với việc xây dựng những hình ảnh biểu tượng giàu ý nghĩa, đặc biệt làm nên sự hấp dẫn, lôi cuốn người đọc là phương thức trần thuật. Phương thức ấy được thể hiện cụ thể ở tác phẩm qua những yếu tố sau – Chọn ngôi kể điểm nhìn trần thuật thích hợp. – Câu chuyện được kể qua sự phát hiện và cảm nhận của nhân vật Phùng. Phùng là một phóng viên nhiếp ảnh được cử đi thực tế để chụp một bức ảnh thuyền và biển cho bộ lịch nghệ thuật. + Sau nhiều ngày “phục kích” anh đã chụp được một cảnh thuyền và biển tuyệt đẹp. Thế nhưng, ngay liền sau đó anh lại chứng kiến một bi kịch trên con thuyền đó cảnh người đàn ông đánh vợ một cách tàn nhẫn, người đàn bà cam chịu, nhẫn nhục, đứa con thương mẹ sẵn sàng đánh bố… Ba ngày sau Phùng lại chứng kiến cảnh tượng trên một lần nữa. + Sau đó tại tòa án huyện, qua câu chuyện của người đàn bà hàng chài, Phùng nhận thức được bao nghịch lí của đời thường, về thân phận của con người, về những mặt khuất lấp của đời sống, về mối quan hệ giữa nghệ thuật với cuộc đời… – Cách chọn ngôi kể và điểm nhìn nghệ thuật như trên đã làm cho câu chuyên trở nên chân thực, gần gũi, tự nhiên, tạo được sự đồng cảm ở người đọc, đồng thời qua Phùng – nhân vật tư tưởng – nhà văn gián tiếp bày tỏ quan điểm nghệ thuật của mình. – Giọng điệu trần thuật biến đổi linh hoạt theo diễn tiến tình tiết giàu kịch tính. Sau đây là một số tình tiết trong phần đầu câu chuyện + Tình tiết 1 Khi nghệ sĩ Phùng sau giây phút thăng hoa của tâm hồn như “vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”, lại bất ngờ chứng kiến một cảnh hoàn toàn trái ngược. Giọng điệu trần thuật biến đổi diễn tả khoảnh khắc bừng ngộ trước sự thật nghiệt ngã “ngay lúc ấy…”, “bất giác tôi nghe…” để rồi sau giây phút bàng hoàng, khi chứng kiến cảnh tượng lão đàn ông đánh vợ, người nghệ sĩ đã “kinh ngạc”. “Thế rồi chẳng biết từ bao giờ tôi đã vứt chiếc máy ảnh chạy nhào tới”. + Tình tiết 2 Sau khi đánh vợ, lão đàn ông bỏ đi, người mẹ vừa đau đớn vừa nhục nhã, xấu hổ, bà đã ôm chầm lấy đứa con “rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để rồi lại ôm chầm lấy”. Còn đứa con lúc này “chẳng hề hé răng, như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ xuyên qua tâm hồn người đàn bà làm rỏ xuống những dòng nước mắt”. Thế rồi “bất ngờ người đàn bà buông đứa trẻ ra, đi thật nhanh ra khỏi bãi xe tăng, đuổi theo lão đàn ông. Cả hai người lại trở về chiếc thuyền” trả lại cho bãi biển vẻ hoang sơ muôn thưở của nó. Và “như trong một câu chuyện cổ đầy quái đản, chiếc thuyền lưới vó đã biến mất”. – Cách thức trần thuật như trên đã làm cho câu chuyện sinh động và hấp dẫn bởi các tình tiết được diễn ra liên tiếp nhau, li kì, giàu kịch tính, lôi cuốn người đọc thêm tò mò, muốn khám phá tiếp những bí ẩn của câu khác, giọng điệu trần thuật ở đây còn khơi gợi ở người đọc những cảm xúc, những suy tư sâu lắng về sự thật đa diện, muôn màu của cuộc đời.
1 MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Nghệ thuật trần thuật là một trong những phương diện cơ bản nhất của lí thuyết tự sự, một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng đã và đang được khai thác rộng rãi. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật là một việc làm có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn. Về mặt lí luận, nó giúp người nghiên cứu xác lập được một hệ thống lí thuyết về trần thuật như một thứ công cụ để khám phá thế giới nghệ thuật kỳ diệu của nhà văn từ đó thấy được tài năng và bản lĩnh của mỗi nghệ sĩ. Về thực tiễn, với một giáo viên văn, việc nắm chắc hệ thống lí thuyết về trần thuật còn có ý nghĩa không nhỏ trong việc khai thác và giảng dạy những tác phẩm văn học trong chương trình phổ thông một cách hữu hiệu. Văn học Việt Nam sau 1975 đã có sự chuyển hướng mạnh mẽ trên tinh thần đổi mới. Nền văn học trong bối cảnh xã hội mới đã vận động xa dần khỏi quĩ đạo của văn học cách mạng với cảm hứng sử thi bao trùm để hướng đến cảm hứng thế sự, đời tư. Hiện thực sau chiến tranh ngổn ngang bề bộn đã trở thành mảnh đất màu mỡ thu hút các nghệ sĩ đặc biệt là các cây bút văn xuôi cày xới. Trong khi tiểu thuyết với ưu thế về khả năng bao quát hiện thực đã hăng hái tiến vào lãnh địa của đời sống để khám phá thì truyện ngắn tuy không có ưu thế về dung lượng nhưng ngược lại với sự gọn nhẹ, cô đúc, linh hoạt, nhanh nhạy đã nhanh chóng bắt nhịp với công cuộc đổi mới, luồn lách sâu vào bức tranh hiện thực xã hội để mổ xẻ những vấn đề nhức nhối nóng bỏng của thời đại. Điều đáng nói là những vấn đề ấy lại được thể hiện trong những hình thức nghệ thuật mới có tính chất đột phá so với trước 1975. Bởi vậy, tìm hiểu về truyện ngắn giai đoạn sau 1975 không những giúp ta có cái nhìn đầy đủ về nền văn học đổi mới mà còn thấy được những đặc điểm về thi pháp truyện, sự vận động của tư duy thể loại trong hành trình phát triển của văn học. Trong bức tranh đa sắc của văn học đương đại, Nguyễn Thị Thu Huệ được biết đến từ những năm 1990 như một nhà văn nữ độc đáo và tài hoa, hào hiệp và mạnh mẽ, dịu dàng mà mãnh liệt… Chị thu hút người đọc bằng sự sắc sảo nhạy bén của một nhà văn trẻ, sự điềm tĩnh của một người từng trải và cả sự nồng nàn, dịu dàng của một người phụ nữ. Sức hấp dẫn của truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ 2 được toát ra từ cách đặt những vấn đề nhức nhối mà âm ỉ trong đời sống đương đại, cách tạo dựng được thế giới nhân vật sống động, chân thực, song trên hết là ở lối kể chuyện. Nếu đã tiếp xúc với truyện ngắn của Thu Huệ thì khó có thể phủ nhận sức lôi cuốn ở nghệ thuật dẫn chuyện tài hoa, một lối viết có duyên, đằm thắm. Bởi thế, tìm hiểu đề tài Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ không chỉ giúp ta có cơ sở để hiểu sâu sắc ý nghĩa của những tác phẩm cụ thể của chị, thấy được tài năng của nữ nhà văn mà còn thấy được sự vận động chung của tư duy thể loại trong dòng hướng của văn học đương đại hôm nay. 2. Lịch sử vấn đề Những ý kiến bàn về truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ Khảo sát những công trình viết về Nguyễn Thị Thu Huệ và tác phẩm của chị, chúng tôi nhận thấy, đã có một số nhà văn, nhà nghiên cứu bàn đến như Bùi Việt Thắng, Lý Hoài Thu, Hồ Phương, Kim Dung… Các ý kiến này xoay quanh việc thừa nhận khả năng đặt ra vấn đề sâu sắc; nghệ thuật miêu tả tâm lí; nghệ thuật xây dựng nhân vật… của chị. Bùi Việt Thắng 1994 nhận xét về nhân vật trong truyện ngắn của Thu Huệ “Nhân vật nữ của Thu Huệ thường cô đơn, dường như tác giả quan niệm nó là mặt trái của tình yêu thương” [90, tr. 92]. Sau gần một thập kỷ 2002, khi phác thảo chân dung Thu Huệ trong lời giới thiệu về 4 cây bút nữ, tác giả một lần nữa khẳng định đối tượng mà Thu Huệ quan tâm hướng tới là “Những thiên đường và hậu thiên đường của đời sống con người, đặc biệt là phụ nữ” [92, tr. 7-8]. Đây là những nhận xét rất chí lý về nhân vật nữ trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Dường như trong từng truyện của chị chan chứa nỗi lo lắng mơ hồ về cuộc đời vốn mênh mông vừa là thiên đường, vừa là địa ngục của người phụ nữ. Với sự nhạy cảm của một nhà văn, sự sắc sảo từng trải của người phụ nữ, Thu Huệ tỏ rõ sự chia sẻ, thận trọng cảm thông với những người đồng giới mình bởi “ai cũng mang khuôn mặt con gái”. Lý Hoài Thu 1993 lại đưa ra những vấn đề mà Thu Huệ muốn gửi gắm qua nhân vật nữ “nhìn đời, nhất là nhìn nhân vật nữ, Thu Huệ nhìn ra biến thái tinh vi của bi kịch tình yêu với những biểu hiện dị thường của nó”[96]. Từ bi kịch trong 3 cuộc đời của người phụ nữ, Thu Huệ không chỉ nhìn thấy những biểu hiện dị thường tinh vi của tình yêu thời hiện đại mà chị còn nhận xét về thế giới đàn ông – những người gây đau khổ cho phụ nữ“từ những người loe xoe lôi những bông hoa trên bàn họp để tặng phụ nữ, đến anh chàng ngồi nhồm nhoàm ăn uống một cách thô tục sau khi cùng người tình lên thiên đàng về, từ cái người đàn ông ra ngõ gặp người tình sợ vợ con biết nên cầm luôn cái xô như người đi đổ rác, đến lão tuổi đã xế bóng, thích ăn xôi sáng cho chắc bụng vẫn thèm khát tấm thân cô gái mười sáu tuổi trẻ trung và bòn rút của cô từng đồng xu một” [96]. Hồ Phương 1994 lại lưu ý đến vốn sống và sự trải nghiệm trong truyện ngắn của Thu Huệ khi nhận xét “Trong các tác giả trẻ, Thu Huệ là cây bút hết sức sắc sảo. Đọc Huệ tôi ngạc nhiên lắm, sao còn ít tuổi mà Huệ lại lọc lõi thế. Nó như con mụ phù thủy lão luyện. Nó đi guốc trong bụng mình. Ruột gan mình có gì hình như nó cũng biết cả” [78]. Kim Dung 1994 khi nghiên cứu về đặc điểm văn phong của Nguyễn Thị Thu Huệ, đã cho rằng “Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ luôn có hai mặt – vừa“bụi bặm” trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm, văn của chị vừa táo bạo vừa thanh khiết. Một cái gì đó không thuần nhất, không đơn giản thậm chí có khi còn đối chọi nhau trong văn Nguyễn Thị Thu Huệ” [16, Những ý kiến trên đã bàn đến một số khía cạnh trong nghệ thuật truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ như nhân vật, văn phong, nghệ thuật xây dựng nhân vật nhưng chưa đặt vấn đề về nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ. Những ý kiến nhận xét có liên quan đến nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ Tuy chưa có một công trình nào trực tiếp bàn về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, nhưng có khá nhiều ý kiến liên quan. Phạm Hoa 1993 đã nhắc đến hai kiểu xây dựng truyện của Thu Huệ một là truyện có chuyện kiểu truyện truyền thống, hai là truyện theo dòng tâm trạng của nhân vật truyện không có chuyện [37], điển hình là Cát đợi. Nguyễn Văn Lưu 1995 phê bình tập Cát đợi nêu ấn tượng “Truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ có một chất gì đó vỡ ra ào ạt, khuấy đảo sôi sục cảm xúc 4 trong người đọc”[62, Những ấn tượng mà nhà nghiên cứu chỉ ra tuy chưa đọc ra hình hài cụ thể nhưng xem xét kỹ ta thấy, ấn tượng đó được tạo ra từ ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật của tác phẩm. Đoàn Hương 1996 nhận xét về sự lôi cuốn trong lối viết của Thu Huệ “Huệ lại có lối viết văn như bị “lên đồng”. Trong truyện ngắn của mình không phải là cô “kể” cho chúng ta nghe mà là cô “lôi” chúng ta đi theo nhân vật. Đó là phong cách độc đáo của Nguyễn Thị Thu Huệ” [50, Nhà nghiên cứu này còn khẳng định “Những truyện ngắn của Huệ được viết, được kể lại bằng chính ngôn ngữ nhân vật nhẹ nhàng và thanh thản trong những tình huống, những cảnh ngộ lại không yên tĩnh chút nào. Cũng như những nhân vật của cô, cô không hề lên án một ai dù là một bà mẹ ích kỷ trong Hậu thiên đường, một người đàn ông tầm thường, nhạt nhẽo và giả dối trong Cát đợi, hoặc những ông bố, người mẹ quái gở trong Phù thủy... Nhưng đọc truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ ta thấy những trang viết không bình lặng. Những nhân vật của cô làm cho ta đau đớn, âm thầm trách móc ta và thức tỉnh ta” [50, Đây là những nhận xét tinh tế về cách xây dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Tuy nhiên, đó mới chỉ dừng lại ở những nhận định mang tính khái quát mà chưa đi sâu làm rõ nghệ thuật kể chuyện trong truyện ngắn của Thu Huệ. Song, đây cũng là những gợi ý hữu ích cho chúng tôi trong quá trình triển khai thực hiện đề tài của mình. Bùi Việt Thắng, người chuyên nghiên cứu về truyện ngắn cũng đã nhận xét rất chí lý về truyện của Thu Huệ. Hai bài viết tiêu biểu là Năm truyện ngắn dự thi của một cây bút trẻ 1994 và phác thảo về Thu Huệ qua Tứ tử trình làng 2002. Tác giả đã nhận xét “Truyện ngắn Thu Huệ hấp dẫn rộng rãi người đọc trước hết vì giàu chất đời” [92, và “Những truyện ngắn hay của Thu Huệ là nhờ người viết biết bứt lên được trên cái có thực đến tận cùng để tìm tòi cái gì đó cao hơn con người, đó là đời sống tâm hồn vốn không rõ ràng, rành mạch, vốn bí ẩn khó giải thích bằng lý trí” [90]. Tác giả còn nhận xét về các phương diện khác như đề tài, chủ đề, đặc biệt là giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Thu Huệ “Thu Huệ quan tâm đến gia đình trong xã hội hiện đại đang tồn tại và tan rã như thế nào, bởi những nguyên nhân nào”, tình huống “tuy hẹp nhưng đặc sắc”, ngôn ngữ “có độ căng của 5 nhịp điệu”,câu thường ngắn, cấu trúc đơn giản, giọng điệu “linh hoạt trong giọng điệu, lúc bạo liệt, lúc thật thà, lúc thâm trầm triết lý, có lúc đỏng đảnh lại có lúc dịu dàng đến bất ngờ” [90]. Nguyễn Việt Hòa 2003 phê bình tập truyện Nào ta cùng lãng quên của Thu Huệ đã nhận xét “Chất lãng mạn trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ tương đối đặc biệt, nó toát ra từ tâm hồn người đang đứng giữa ranh giới thiếu nữ - phụ nữ” [41]. Nhìn nhận Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn nữ “độc đáo và tài hoa”, Hồ Sĩ Vịnh đã tìm hiểu truyện ngắn của Thu Huệ trên bình diện thi pháp truyện ngắn Thu Huệ được viết theo thi pháp mở thể hiện qua việc xây dựng nhân vật, qua cách xây dựng cốt truyện. Tác giả còn nhận xét những nhân vật tôi trong truyện ngắn Thu Huệ “những nhân vật tôi trong truyện của Thu Huệ thường bắt đầu bằng cụm từ “ tôi tưởng tượng”, “tôi như bay lên chín tầng mây”, “tôi có cảm giác như mình hóa thành đá”... tất cả đó là cảnh hư nhằm nói cái thực đa diện hơn, có kích thước hơn, có tần số ý nghĩa sâu sắc hơn. Tôi gọi đó là thi pháp mở. Thi pháp mở còn được thể hiện ở chiều sâu gợi cảm, nội tâm của người viết hoặc của nhân vật “tôi”, mặc dầu tình huống bên ngoài có khi không chuẩn bị gì cho cái thế giới đầy xao động kia..” [101, Những đặc điểm, cảm xúc của nhân vật “tôi” trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ cho chúng ta những liên tưởng, ấn tượng về người kể chuyện từ ngôi thứ nhất. Có thể nhận thấy, nhiều truyện ngắn của Thu Huệ được đánh giá cao là những truyện được viết bằng năng lực biểu cảm cuộc sống qua thế giới tâm hồn của nhân vật “ tôi”. Phương thức thể hiện này không chỉ làm cho hiện thực được phản ánh có chiều sâu mà còn giàu sức khái quát, sức ám ảnh lớn. Đây cũng là một đặc điểm độc đáo trong thi pháp truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. Luận án tiến sĩ Khảo sát lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ của Lê Thị Sao Chi thực hiện tại Đại học Sư phạm Vinh bảo vệ tháng 3 năm 2011 có nghiên cứu về ngôn ngữ độc thoại nội tâm của nhân vật trong truyện ngắn của Thu Huệ. Khi bàn về điều này, tác giả luận án nhận định ngôn ngữ độc thoại nội tâm trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ thường đặt vào nhân vật nữ. Đó thường là những khoảnh khắc suy tư về tình yêu, hạnh phúc gia đình, chuyện ghen tuông, bất hạnh… “Truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ chuyên nói về cuộc sống gia đình và một trong những nội dung cơ bản là phản ánh bi kịch về sự bế tắc, không tìm ra cách 6 giải quyết cho các vấn đề trong cuộc sống. Đời sống nội tâm các nhân vật trong Cát đợi, Người đi tìm giấc mơ, Tình yêu ơi, ở đâu?, Hậu thiên đường, Phù thủy, Giai nhân, Thiếu phụ chưa chồng… luôn giằng xé trong những câu chuyện về gia đình, hôn nhân, hạnh phúc, tình yêu…” [15, Như vậy, qua việc khảo sát các bài viết về Nguyễn Thị Thu Huệ và truyện ngắn của chị, chúng tôi cho rằng Mặc dù chưa có độ lùi thời gian cần thiết nhưng truyện ngắn của Thu Huệ đã thực sự thu hút nhiều nhà nghiên cứu. Tuy chưa có được những công trình có qui mô lớn nhưng những bài báo rải rác, đều đặn của các nhà văn, nhà phê bình, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ… tìm hiểu truyện ngắn Thu Huệ đã cho thấy sức lôi cuốn từ tác phẩm của chị. Các công trình, bài báo, luận án… tập trung vào nhiều mảng như cách lựa chọn đề tài, khả năng tinh tế, sắc sảo trong việc phát hiện vấn đề, nghệ thuật xây dựng nhân vật… Các công trình trên có đề cập đến cách dẫn chuyện có duyên, giọng văn sôi sục, ngôn ngữ độc thoại hay lối viết “lên đồng”… của Nguyễn Thị Thu Huệ nhưng chưa có công trình nào đi sâu bàn về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của chị. Vì thế, chúng tôi chọn vấn đề này để đi sâu tìm hiểu với mong muốn tìm ra được những đóng góp của chị trong nghệ thuật tự sự, một phương diện quan trọng trong nghệ thuật truyện. 3. Mục đích nghiên cứu Thực hiện đề tài Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi một mặt muốn hệ thống những ý kiến bàn về trần thuật, nghệ thuật trần thuật, đưa ra một cách nhìn về vấn đề này, mặt khác muốn vận dụng những lí thuyết về tự sự để khám phá cách thức trần thuật của Nguyễn Thị Thu đó thấy được sự thành công của nữ nhà văn trong lối viết, trong cách dẫn chuyện, và sự đóng góp riêng của chị cho nền văn học đương đại. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn tiến hành khảo sát các ý kiến bàn về trần thuật, phân tích và xác lập cơ sở lí thuyết hợp lí, tin cậy. Hơn nữa, trên cơ sở nghiên cứu truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ từ nghệ thuật trần thuật để đi đến đánh giá sự thành công trong lối viết, từ đó thấy được vị trí của Nguyễn Thị Thu Huệ trong bức tranh chung của văn học đương đại. 7 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Luận văn của chúng tôi hướng đến nghiên cứu nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ với việc khảo sát, phân tích từ các khía cạnh cơ bản trong cấu trúc trần thuật như điểm nhìn trần thuật, ngôi kể, ngôn ngữ, giọng điệu trần thuật… Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu Trong phạm vi có hạn của luận văn, chúng tôi khảo sát trên một số tập truyện tiêu biểu của chị + Cát đợi 1992; + Hậu thiên đường 1993; + Phù thủy 1995; + Nào ta cùng lãng quên 2003; + 37 truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ 2006, tái bản 2010. Trong khi nghiên cứu truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi còn khảo sát một số tập truyện của các tác giả đương đại khác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Y Ban, Phan Thị Vàng Anh, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư… để đối sánh. 6. Phương pháp nghiên cứu Căn cứ vào nội dung vấn đề đặt ra, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau - Phương pháp hệ thống. - Phương pháp so sánh đối chiếu. - Phương pháp thống kê. - Phương pháp phân tích - tổng hợp. - Phương pháp loại hình. 7. Đóng góp của luận văn - Luận văn mong muốn đóng góp một cách nhìn mang tính cá nhân về nghệ thuật trần thuật. - Từ sự soi sáng của lí thuyết về trần thuật, chúng tôi phân tích và tìm ra những nét độc đáo, nhưng không loại trừ những điều còn tồn tại trong nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ, từ đó đưa ra những nhận xét khách quan về đóng góp của tác giả đối với nền văn học nước nhà. 8 8. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, chúng tôi triển khai nội dung chính gồm 3 chương Chương 1. Một số vấn đề lí luận về trần thuật học và hành trình sáng tác văn chương của Nguyễn Thị Thu Huệ. Chương 2. Điểm nhìn trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. Chương 3. Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ. 9 NỘI DUNG Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRẦN THUẬT HỌC VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC VĂN CHƯƠNG CỦA NGUYỄN THỊ THU HUỆ Những vấn đề lý luận về trần thuật học Khái niệm trần thuật, trần thuật học Khái niệm trần thuật Xét về thuật ngữ, trần thuật narration còn gọi tên khác là kể chuyện đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đưa ra những cách hiểu khác nhau. Khi bàn về kể chuyện, Velt cho rằng “Kể là một hành vi trần thuật, và theo nghĩa rộng là một tình thế hư cấu bao gồm cả người trần thuật narrateur và người nghe kể narrataire” [81, Cũng bàn về kể chuyện, nhà nghiên cứu Hayden White lại lưu ý đến động cơ của hành động kể và hiểu kể chuyện trong phạm vi rộng lớn bao quát cả đời sống “Động cơ khiến người ta phải kể lại điều gì đó là rất tự nhiên, hình thức tự sự dường như là hình thức tất yếu cho bất kì một sự tường thuật nào về những gì đã thực sự xảy ra” [86, Ở Việt Nam, hầu hết các nhà nghiên cứu cũng cho rằng trần thuật là một hoạt động sáng tạo của nhà văn trong việc tái hiện hiện thực trong tác phẩm nhất là tác phẩm tự sự. Theo Từ điển thuật ngữ văn học, trần thuật “là phương diện cơ bản của phương thức tự sự, là giới thiệu, khái quát, thuyết minh, miêu tả đối với nhân vật, sự kiện, hoàn cảnh, sự vật theo cách nhìn của người trần thuật nhất định” [29, Cũng bàn về khái niệm trần thuật, tác giả Lại Nguyên Ân trong 150 thuật ngữ văn học cho rằng “Trần thuật bao gồm cả việc kể và miêu tả các hành động và các biến cố trong thời gian, mô tả chân dung hoàn cảnh của hành động, tả ngoại hình, tả nội thất… bàn luận, lời nói bán trực tiếp của nhân vật. Do vậy, trần thuật là phương thức chủ yếu để cấu tạo các tác phẩm tự sự hoặc của người kể, tức là toàn bộ văn bản tác phẩm tự sự, ngoại trừ lời nói trực tiếp của các nhân vật” [4, Trong bài Việc mở ra môn trần thuật học trong ngành nghiên cứu văn học ở Việt Nam, tác giả Lại Nguyên Ân có viết “Trần thuật narration chỉ phương thức 10 nghệ thuật đặc trưng trong các tác phẩm thuộc văn học tự sự tương tự, trầm tư/meditation/ đặc trưng cho văn học trữ tình, đối thoại đặc trưng cho văn học kịch”, “Thực chất của hoạt động trần thuật là kể, là thuật, là cái được kể, được thuật, trong tác phẩm văn học là chuyện” [81, Cùng với quan điểm này là định nghĩa trong Giáo trình lí luận văn học “Trần thuật là kể, thuyết minh, giới thiệu về nhân vật, sự kiện, bối cảnh trong truyện. Trần thuật là hành vi ngôn ngữ kể, thuật miêu tả sự kiện nhân vật theo một thứ tự nhất định.” [85, Như vậy, trần thuật là một vấn đề được rất nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Qua nghiên cứu, tìm hiểu những quan niệm trên, tựu trung có thể thấy Trần thuật trước hết là một phương thức nghệ thuật đặc trưng trong các tác phẩm thuộc loại hình tự sự, thực chất của hoạt động trần thuật là việc kể lại, thuật lại những sự kiện, con người, hoàn cảnh…theo một thứ tự nhất định, dưới một cái nhìn nào đó. Nghiên cứu nghệ thuật trần thuật giúp ta có cơ sở để khẳng định giá trị của tác phẩm đồng thời khẳng định tài năng và những đóng góp của nhà văn vào tiến trình văn học. Trần thuật học Thuật ngữ narratology được dịch là trần thuật học đã xuất hiện và nhanh chóng trở nên quen thuộc trong giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Nếu trần thuật là hoạt động kể thì trần thuật học là bộ môn nghiên cứu về hoạt động trần thuật kể với các vấn đề lí thuyết về nghệ thuật kể chuyện. Trần thuật học còn được gọi tên khác là tự sự học. Trong thực tế nghiên cứu đã có những ý kiến tranh luận xung quanh việc dùng thuật ngữ trần thuật học hay tự sự học. Trong công trình Trần thuật học – dẫn luận lí luận tự sự 1999, Mieke Bal người Hà Lan đã dùng hai thuật ngữ này không có ý nghĩa phân biệt khi cho rằng “Tự sự học narratology là lí luận về trần thuật, văn bản trần thuật, hình tượng, hình ảnh sự vật sự kiện cùng sản phẩm văn hóa kể chuyện” [86, Ở Việt Nam, trong các cuộc hội thảo, nhiều ý đề xuất dùng thuật ngữ trần thuật học Lại Nguyên Ân, Đỗ Hải Phong…, nhưng phần lớn dùng cách gọi tự sự học Trần Đình Sử, Phương Lựu, Lê Thời Tân…. Thực chất, sự khác nhau trong cách dùng thuật ngữ cũng không cản trở sự 11 phát triển mạnh mẽ của môn nghiên cứu. Trong luận văn, chúng tôi chọn cách gọi trần thuật học vì tự sự vốn đã là khái niệm dùng để chỉ một trong ba loại văn lớn của văn học phân biệt với trữ tình và kịch. Về lịch sử nghiên cứu, theo quan điểm của Trần Đình Sử thì đây “là một lĩnh vực tri thức rộng lớn, có lịch sử nghiên cứu lâu đời” [86, với những dẫn chứng về các nghiên cứu của Platon khi đối lập mô phỏng với tự sự, Thomas Lister thế kỷ XIX với lí thuyết điểm nhìn, John Gibson Lockhart thế kỷ XIX với khái niệm khoảng cách… Nhưng trên thực tế, chỉ đến đầu thế kỉ XX, trần thuật học mới thực sự trở thành một vấn đề lý thuyết tự sự thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới. Từ đó đến nay việc nghiên cứu về lí luận trần thuật đã có những bước tiến dài và đạt được những thành tựu quan trọng. Những thành tựu này kết tinh trong các công trình nghiên cứu tự sự của các nhà hình thức Nga Eikhenbaum; nguyên tắc đối thoại của loại hình học vẽ kĩ thuật trần thuật Anh Mỹ do khởi tạo và tu chỉnh; các nghiên cứu về loại hình trần thuật của các học giả Đức các quan niệm của nhà cấu trúc người Czech các học giả Nga và Ở Việt Nam, việc nghiên cứu về lí luận trần thuật diễn ra muộn hơn. Đầu thế kỷ XX, khi nền phê bình hiện đại xuất hiện, các nhà nghiên cứu bắt đầu quan tâm đến bút pháp, lối viết nhưng chưa đi sâu tìm hiểu về trần thuật như một vấn đề lí luận thực sự. Từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến 1975, nền văn học chuyển động theo quĩ đạo của văn học kháng chiến, với cảm hứng sử thi bao trùm. Các nhà văn trong khi sáng tạo cũng đã chú ý đến nghệ thuật kể chuyện nhưng việc nghiên cứu về trần thuật thì còn rời rạc, lẻ tẻ. Từ năm 1986, văn học thoát khỏi đà trôi quán tính của khuynh hướng sử thi để trở về với hiện thực ngổn ngang, bề bộn sau chiến tranh. Trước bối cảnh mới, quan điểm nghệ thuật và thị hiếu thẩm mĩ cũng đổi thay. Nhà văn không chỉ quan tâm đến việc phản ánh đời sống mà còn rất chú ý đến kỹ thuật, lối viết. Bởi vậy, việc nghiên cứu về lí luận trần thuật cũng được đẩy mạnh. Đặc biệt, lí luận trần thuật được quan tâm rộng rãi khi liên tiếp diễn ra những cuộc hội thảo về tự sự học năm 2001 và 2003 tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 12 Thực tiễn văn học cho thấy, trong văn xuôi cổ trung đại trên thế giới và Việt Nam, nhà văn thường chú ý đến việc xây dựng các sự kiện và triển khai cốt truyện. Ngay cả tâm lí người đọc cũng luôn luôn theo dõi để biết được diễn biến câu chuyện ra sao, kết cục thế nào. Nhưng bước sang xã hội hiện đại, nhu cầu thị hiếu của bạn đọc thay đổi. Họ không còn tìm đến tác phẩm chỉ để biết diễn biến cốt truyện mà họ còn quan tâm đến cách kể chuyện của nhà văn. Thậm chí, họ xem trọng cách kể, cách triển khai câu chuyện hơn là bản thân câu chuyện ấy. Trước sự đổi thay này, mỗi nhà văn đều phải nỗ lực trong cách viết nhằm mang lại những tác phẩm thực sự hấp dẫn bạn đọc. Và đây cũng là cơ sở cho sự hình thành của bộ môn trần thuật học. Việc nghiên cứu nghệ thuật trần thuật của một tác giả đòi hỏi phải đi sâu tìm hiểu lí thuyết trần thuật học và vận dụng lí thuyết ấy để phân tích những biểu hiện cụ thể của sự độc đáo trong nghệ thuật dẫn chuyện, kiến tạo điểm nhìn, ngôi kể, sự xác lập ngôn ngữ giọng điệu đặc trưng từ đó có những nhận xét, kết luận chính xác về tài năng, bản lĩnh nghệ thuật cũng như phong cách của nhà văn. Các yếu tố cơ bản của trần thuật Như trên đã nói, trần thuật là vấn đề lý luận thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, vì thế, các yếu tố cấu trúc của nó cũng không ngừng được tìm hiểu và khám phá. Đề cập đến các yếu tố của trần thuật, M. Gorki đã chỉ ra rằng “Trong tiểu thuyết hay truyện, những con người được tác giả miêu tả đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn luôn ở cạnh họ, mách cho người đọc biết rõ phải hiểu họ như thế nào, giải thích cho người đọc hiểu những ý nghĩa thầm kín, những động cơ bí ẩn phía sau những hành động của các nhân vật được miêu tả, tô đậm thêm cho tâm trạng họ bằng những đoạn miêu tả thiên nhiên, trình bày hoàn cảnh và nói chung là luôn giật dây cho họ thực hiện những mục đích của mình, điều khiển một cách tự do và nhiều khi khéo léo, mặc dù người đọc không nhận thấy những hành động, những lời lẽ, những việc làm, những mối tương quan của họ” [Dẫn theo 29, Như vậy, M. Gorki đã kể ra các thành phần của trần thuật không chỉ gồm lời thuật, chức năng của nó, không chỉ là kể việc mà nó bao hàm cả việc miêu tả đối tượng, phân tích hoàn cảnh, thuật lại tiểu sử nhân vật, lời bình luận, lời trữ tình ngoại đề, lời ghi chú tác giả. 13 Theo Trần Đình Sử, trần thuật gồm sáu yếu tố cơ bản là kể chuyện, ngôi trần thuật và vai trần thuật; điểm nhìn trần thuật; lược thuật; miêu tả chân dung và dựng cảnh; phân tích, bình luận, giọng điệu. Theo quan niệm của chúng tôi, trần thuật đòi hỏi trước hết phải có người kể. Chủ thể của hoạt động kể phải xử lý tốt mối quan hệ giữa chuỗi lời kể với chuỗi các sự kiện và nhân vật. Và như vậy có hai nhân tố quy định tới trần thuật là người kể chuyện và chuỗi ngôn từ. Từ người kể chuyện ta có ngôi trần thuật, điểm nhìn trần thuật; từ chuỗi ngôn từ ta có ngôn ngữ trần thuật, giọng điệu trần thuật, không gian trần thuật, thời gian trần thuật…Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số yếu tố tiêu biểu thuộc nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ. Vì thế, chúng tôi sẽ tiến hành xác lập những khái niệm cơ bản liên quan đến những vấn đề nằm trong phạm vi nghiên cứu. Người trần thuật Để tái hiện câu chuyện, nhà văn phải tạo ra người kể bởi nếu không có người kể thì sẽ không có truyện. Nói về điều này, Tz. Todorov từng khẳng định “Người kể chuyện là yếu tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng… Không thể có trần thuật nếu thiếu người kể chuyện” [ 81, Người kể chuyện hay còn gọi là “người trần thuật” cũng như nhiều khái niệm khác, cho đến nay vẫn chưa được các nhà lí luận văn học thống nhất hoàn toàn. Theo Pospelov thì người kể chuyện là “người môi giới giữa các hiện tượng được miêu tả và người nghe người đọc, là người chứng kiến, cắt nghĩa các sự việc xảy ra” [86, Trong quan niệm của người kể chuyện là một khái niệm mang tính chất cực kỳ hình thức “Đó là một hình hài được sáng tạo ra, thuộc về toàn bộ chỉnh thể tác phẩm văn học. Ở nghệ thuật kể, người kể chuyện không bao giờ là vị tác giả đã hay chưa nổi danh, nhưng là cái vai mà tác giả bịa ra và đã chấp nhận”. [86, Với Todorov thì người kể chuyện không chỉ là người kể mà còn là người định giá “Người kể chuyện là một nhân tố chủ động trong việc kiến tạo thế giới hư cấu. Chính người kể chuyện là hiện thân của những khuynh hướng mang tính xét đoán và đánh giá” [86, 14 Các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học thì cho rằng người kể chuyện “là hình tượng ước lệ về người trần thuật trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bới một nhân vật cụ thể trong tác phẩm” [29, Người kể chuyện có thể xuất hiện xưng “tôi” trực tiếp hoặc ẩn hiện vô hình để thuật lại câu chuyện. Người kể chuyện thống nhất nhưng không đồng nhất với tác giả. Khi nói tới điều này, đã nhấn mạnh “Trong nghệ thuật kể, người kể chuyện không bao giờ là tác giả đã hay chưa từng được biết đến, mà là một vai trò được tác giả nghĩ ra và ước định” [86, Sở dĩ có thể khẳng định người kể chuyện thống nhất với tác giả bởi người kể chuyện là người mang tiếng nói, quan điểm của tác giả. Đọc truyện ngắn viết về đề tài người nông dân của Nam Cao ta như thấy nỗi day dứt, ám ảnh, thương xót của nhà văn trước những mảnh đời bất hạnh. Đọc truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng ta như thấy thái độ mỉa mai châm biếm của ông với xã hội. Sự thống nhất giữa tác giả và người kể chuyện biểu hiện rõ nhất ở những tác phẩm có hình thức tự truyện. Trong những tác phẩm này, qua cái tôi của người kể chuyện, ta thấy khá rõ cái tôi của tác giả ngoài đời. Chẳng hạn, qua lời kể chân tình, mộc mạc của nhân vật “tôi” qua bộ ba tự thuật Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi ta phần nào thấy được cuộc đời cơ cực gian khổ và những nỗ lực không ngừng để vươn tới đỉnh cao văn hóa của M. Gorki Những ngày thơ ấu cho thấy những đắng cay tủi nhục, những khao khát, ước mơ của Nguyên Hồng khi còn nhỏ. Tuy thống nhất nhưng ta không được phép đồng nhất người kể chuyện với tác giả bởi lẽ tư tưởng của tác giả rộng hơn tư tưởng của người kể chuyện, nếu chỉ dựa vào quan điểm người kể để đánh giá tác giả sẽ khó tránh được sự cực đoan, phiến diện. Ngay cả ở những tác phẩm tự truyện thì giữa người kể chuyện với tác giả vẫn có những nét khác biệt, những khoảng cách rõ rệt. Người kể chuyện trong tác phẩm có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó không chỉ dẫn dắt, môi giới để bạn đọc tiếp cận với thế giới nghệ thuật mà còn có chức năng tổ chức, sắp xếp các sự kiện trong tác phẩm. Bởi vậy, khi trần thuật, nhà văn thường cân nhắc trong việc lựa chọn ngôi kể để làm sao cho câu chuyện hấp dẫn lôi cuốn người đọc. Về mặt lí luận, có nhiều cách phân loại người kể chuyện theo những tiêu chí khác nhau kể 15 chuyện ở ngôi thứ nhất, từ ngôi thứ hai, ở ngôi thứ ba, kể chuyện theo nhiều ngôi; hoặc người kể chuyện tham gia vào câu chuyện hay người kể chuyện thờ ơ, lãnh đạm; người kể chuyện sử quan, người kể chứng nhân hay người kể toàn tri… Trong luận văn này, bám sát thực tế nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Thị Thu Huệ, để đảm bảo sự thống nhất, chúng tôi dùng thuật ngữ người kể theo ngôi ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Về vấn đề kể chuyện từ ngôi thứ nhất, Bakhtin đã có một ý kiến hết sức xác đáng “Trần thuật từ ngôi thứ nhất là tương tự với sự trần thuật của người kể chuyện. Đôi khi hình thức này do dụng ý dựa trên lời kể của kẻ khác quy định; đôi khi như lối kể của Tuôcghênhiep, nó có thể tiếp cận và cuối cùng là hòa nhập với lời trực tiếp của tác giả, tức là hoạt động với lời một giọng của ngôi thứ hai”. [81, Hình thức kể từ ngôi thứ nhất là hình thức người trần thuật xuất hiện trực tiếp xưng “tôi” trong tác phẩm để kể về mình hoặc kể về người khác mà mình biết hoặc trực tiếp có liên quan. Hình thức kể này sẽ hạn định bởi nhân vật “tôi” với những giới hạn vốn có của một cá nhân nhưng nó tạo cảm giác chân thật, tin cậy cho lời kể bởi người kể từng là người trong cuộc, hoặc chứng nhân. Hơn nữa, cách kể này cũng khẳng định câu chuyện được nhìn nhận dưới cái nhìn của cá nhân “tôi” không phải là chân lý, là kết luận cuối cùng mà chỉ là một cách nhìn mang tính cá nhân. Bởi vậy, lối kể này mời gọi sự tranh luận đối thoại trên tinh thần dân chủ cởi mở. Trần thuật từ ngôi thứ ba là hình thức trần thuật do một người “biết tuốt” mọi chuyện tiến hành kể. Người trần thuật núp kín, vô hình đứng sau lưng nhân vật nhưng không xuất hiện cũng không hề tham dự vào diễn biến của câu chuyện, câu chuyện như tự nó hiện ra. Người kể tuy ẩn tàng giấu mặt nhưng “biết tuốt” mọi việc diễn ra với nhân vật. Anh ta cũng là người nắm trong tay “quyền sinh, quyền sát” đối với nhân vật, toàn quyền sắp xếp các sự kiện cũng như đưa ra quan điểm đánh giá về nhân vật, sự kiện trong tác phẩm. Lối kể từ ngôi thứ ba có ưu thế trong việc đưa vào những đoạn trữ tình ngoại đề, liên hệ tạt ngang, bình luận triết lí một cách tự do nhưng ít nhiều khó thoát khỏi tính chất “chuyên chế” trong việc đánh giá đối tượng. Trong văn học cổ trung đại, hình thức kể từ ngôi thứ ba toàn năng luôn thống lĩnh nhưng bước sang thời kỳ đổi mới, người kể từ ngôi thứ ba rút bớt quyền năng của mình để “nhường sân” cho độc giả. Đây chính là cơ sở tạo nên tính dân chủ và đối thoại cho văn học đổi mới. 16 Từ thế kỉ XIX về trước, văn học ưa thích khái niệm cốt truyện với các biến cố cao trào, những “thắt nút”, “mở nút” nên hình thức kể chuyện ở ngôi thứ ba – người kể toàn tri cố giấu mình tuyệt đối rất phổ biến và luôn được ưa chuộng. Sang thế kỉ XX, đánh dấu sự trỗi dậy vượt bậc của ý thức cá nhân, văn học không còn bị chi phối quá nhiều bởi tính chất sự kiện mà nghiêng về những “ẩn ức”, những mảnh đoạn tâm lý, những vô thức và tiềm thức… Người sáng tạo và độc giả quan tâm nhiều hơn đến chủ thể thẩm mỹ, đến bút pháp nhiều hơn là diễn biến sự kiện. Chính vì vậy sự lựa chọn hình thức kể chuyện từ ngôi thứ nhất sẽ giúp cho ngòi bút các tác giả tự do, phóng túng hơn trong việc đào sâu khám phá những khuất nẻo tâm hồn, những phần bản nguyên nhất của con người. Nói chung, mỗi hình thức kể đều có những ưu thế và những giới hạn riêng. Việc vận dụng thành công hay không còn tùy thuộc vào tài năng của nghệ sĩ. Như vậy, việc điểm qua và phân tích một số quan niệm như trên giúp chúng tôi đi đến một khẳng định người kể chuyện, ngôi kể là yếu tố đặc biệt quan trọng trong sáng tạo nghệ thuật. Nhà văn chỉ thực sự sáng tạo được khi lựa chọn được người kể chuyện, ngôi kể gắn với điểm nhìn hợp lí. Việc xem xét người kể chuyện, ngôi kể không chỉ giúp ta thấy được tài năng của người cầm bút mà còn thấy được thái độ, lý tưởng, quan điểm của anh ta trong đó nữa bởi theo M. Bakhtin thì “Ta đoán định âm sắc tác giả qua đối tượng của câu chuyện kể, cũng như qua chính câu chuyện và hình tượng người kể chuyện bộc lộ trong quá trình kể.” [81, Điểm nhìn trần thuật Điểm nhìn nghệ thuật cho đến nay tuy không còn là vấn đề quá nóng bỏng trong các cuộc hội thảo ở phương Tây nhưng nó đã được mặc nhiên thừa nhận trở thành vấn đề ưu tiên hàng đầu trong các công trình nghiên cứu về tự sự, trần thuật. Thuật ngữ điểm nhìn được gọi tên bằng nhiều cách khác nhau như viewpoint, view, point of view, vision… Thực tế cho thấy, các nhà lí luận phê bình cũng sử dụng rất nhiều những thuật ngữ khác nhau để cùng nói về khái niệm này. Chẳng hạn, với Henry và James là trung tâm của nhận thức centre of consciousness, Percy Lubbock điểm nhìn Point of view, Jean Pouillon tầm nhìn vision Allen Tate vị trí quan sát post of obeservation, Cleanth Brooks và Robert Penn Warren tiêu 17 điểm truyện kể focus of narrative… thuật ngữ này cũng được gọi là góc nhìn theo quan điểm của Phương Lựu… nhưng phổ biến nhất vẫn là điểm nhìn. Vấn đề điểm nhìn đã được nghiên cứu từ lâu, từ đầu TK XIX với Anna Barbauld, cuối XIX với Henri James 1884, đầu XX với Friedman, Foster, Tomasevski, từ những năm 40 trở đi được nghiên cứu sâu hơn với Todorov, Genette, Lốtman, Bakhtin,… Henry James trong Nghệ thuật văn xuôi 1884 xác lập điểm nhìn chính là “mô tả cách thức tồn tại của tác phẩm như một hành vi mang tính bản thể hoặc một cấu trúc hoàn chỉnh, tự trị đối với cá nhân nhà văn” [86, và “Điểm nhìn là sự lựa chọn cự li trần thuật nào đó loại trừ được sự can thiệp của tác giả vào các sự kiện được miêu tả và cho phép văn xuôi trở nên tự nhiên hơn, phù hợp với cuộc sống hơn” [86, đánh dấu một bước phát triển đáng kể trong nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện, kể từ đó điểm nhìn nghệ thuật được coi là một nhân tố bộc lộ kỹ thuật thể loại của nhà văn, một mắt xích khách quan, nội tại, duy nhất mà theo đó chúng ta có thể đánh giá được “tay nghề” của tác giả. Từ điển văn học thế giới Dictionnary of the World Literaturre khẳng định điểm nhìn “là mối tương quan trong đó chỉ vị trí đứng của người kể chuyện để kể câu chuyện…Nó có thể chi phối hoặc là từ bên trong hoặc là từ bên ngoài. Ở điểm nhìn từ bên trong, người kể chuyện là một trong các nhân vật; do đó câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất. Điểm nhìn từ bên ngoài được mang lại từ một ý nghĩa bên ngoài, của người không phải là một phần của câu chuyện; trong trường hợp này câu chuyện thường được kể từ ngôi thứ ba” [30, tr. 84]. Bàn về vai trò của điểm nhìn trong cấu trúc của loại tác phẩm tự sự, Pospelov cho rằng “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương quan giữa các sự vật với chủ thể trần thuật hay nói cách khác, điểm nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả” [79, Trong công trình Bản chất của tự sự của R. Scholes và R. Kellogg xuất bản lần đầu vào năm 1966, vấn đề điểm nhìn đã được xem xét như là một trong những yếu tố quan trọng tạo dựng cấu trúc tác phẩm và xác lập mô hình truyện kể. Theo R. Scholes và R. Kellogg thì “điểm nhìn là vấn đề chính của nghệ thuật kể 18 chuyện, nó không chia sẻ với thơ ca hoặc là văn học kịch. Ở đây mối quan hệ giữa người kể chuyện – truyện kể và mối quan hệ giữa người kể chuyện – độc giả thực chất là nghệ thuật kể chuyện” [86, Quan niệm này đã đánh dấu một bước phát triển đáng kể trong nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện, kể từ đó, điểm nhìn nghệ thuật được coi là một nhân tố bộc lộ kĩ thuật thể loại của nhà văn, một mắt xích khách quan, nội tại mà theo đó chúng ta có thể đánh giá được “tay nghề” của tác giả. Khi nghiên cứu điểm nhìn trần thuật, các học giả đều ít hoặc nhiều bàn đến điểm nhìn trong mối quan hệ với ngôi kể. Không chỉ tìm hiểu về bản chất, vai trò của điểm nhìn mà các học giả còn có tham vọng phân loại chúng dù rằng đây là việc làm không dễ. Từ những nhận định mang tính khái quát, sơ lược về điểm nhìn trong các từ điển, chẳng hạn như điểm nhìn là “vị trí của người kể trong mối quan hệ với câu chuyện của anh ta”, các học giả đi đến phân loại điểm nhìn gắn với ngôi kể gồm ba loại chính người kể chuyện toàn tri người kể thông suốt mọi sự, người kể chuyện ngôi thứ ba; và truyện kể ngôi thứ nhất. Việc nghiên cứu điểm nhìn đã tiến những bước dài trên hành trình kiếm tìm chân lý, trở nên có hệ thống, phức tạp và tinh vi hơn nhiều từ khi xuất hiện các công trình của P. Lubbock, G. Genette, B. Uspenski, W. Booth, R. Scholes và R. Kellogg, I. Lotman, S. Lanser; Friedman, Greimas... Khi nghiên cứu về điểm nhìn trần thuật, Friedman đã căn cứ vào vị thế của người kể theo ngôi để phân loại điểm nhìn. Theo nhà nghiên cứu, điểm nhìn gồm tám loại Điểm nhìn biết hết kiểu biên tập; điểm nhìn biết hết kiểu trung lập; điểm nhìn biết hết có chọn lựa; điểm nhìn biết hết với nhiều sự chọn lựa; điểm nhìn như trong kịch; điểm nhìn theo ngôi thứ nhất xưng tôi, nhưng người trần thuật là nhân vật phụ trong câu chuyện; điểm nhìn từ ngôi thứ nhất xưng tôi, đồng thời là nhân vật trung tâm trong tác phẩm; điểm nhìn kiểu máy ảnh… [86, Cũng tìm hiểu về điểm nhìn nghệ thuật trong mối quan hệ không tách rời với ngôi kể, G. Genette dùng thuật ngữ tiêu điểm để phân loại. Theo nhà nghiên cứu này thì điểm nhìn tiêu điểm gồm ba loại cơ bản Phi tiêu điểm, nội tiêu điểm, ngoại tiêu điểm. Theo đó, phi tiêu điểm nghĩa là nhân vật trần thuật đứng bên ngoài, nhưng có vai trò như thượng đế, biết hết mọi chuyện nhân sinh, vũ trụ, quá khứ, hiện tại, tương lai, 19 thường thấy trong loại tự sự cổ trung đại. Nội tiêu điểm chỉ người trần thuật vốn là nhân vật ngay trong câu chuyện, nhưng lại có ba dạng cụ thể khác nhau dạng cố định, dạng bất định, dạng đa thức. Ngoại tiêu điểm nhân vật kể chuyện nằm ngoài câu chuyện nhưng chỉ kể lại tình tiết câu chuyện một cách khách quan, chứ không đi sâu vào tâm lí nhân vật. Xem xét điểm nhìn trần thuật không tách rời quan hệ với ngôi kể, Greimas Pháp đã phân ra bốn loại điểm nhìn Điểm nhìn biết hết, điểm nhìn của ngôi thứ nhất với tư cách là người tham dự, điểm nhìn chủ quan của ngôi thứ ba, điểm nhìn khách quan của ngôi thứ ba… Việc điểm qua các cách phân loại điểm nhìn trên, ta thấy là hầu hết các học giả đều chú trọng vào người kể chuyện và phân loại thành nhiều kiểu người kể chuyện, chẳng hạn như đó là kiểu người kể chuyện “ngôi thứ nhất” hoặc “ngôi thứ ba”, người kể chuyện toàn tri biết hết hoặc toàn tri một phần Partially omniscient hoặc có giới hạn limited, người kể chuyện theo điểm nhìn bên trong hoặc bên ngoài, người kể chuyện kịch hoá dramatized hoặc phi kịch hoá non-dramatized, người kể chuyện là các nhân vật trong truyện hoặc là không… Các kiểu người kể chuyện tuy có giới hạn nhưng đã được xác lập, trở thành những khái niệm công cụ cơ bản để từ đó mỗi nhà nghiên cứu tìm tòi và khai thác theo một cách thức riêng các vấn đề của điểm nhìn nghệ thuật cũng như nghệ thuật kể chuyện. Như vậy, tìm hiểu điểm nhìn nghệ thuật là một việc làm có thiết thực tạo tiền đề cho việc nghiên cứu nghệ thuật trần thuật. Thực tế văn học cho thấy, nhiều khi tài năng của nhà văn được khẳng định là nhờ có một cái nhìn mới mẻ, tinh nhạy về đời sống. Sự thay đổi của nghệ thuật cũng bắt đầu từ thay đổi điểm nhìn. Người đọc cảm thụ tác phẩm cũng phải xuất phát từ những điểm nhìn nhất định. Xem xét điểm nhìn cho ta thấy nhãn quan tư tưởng của nhà văn cũng như tài năng nghệ thuật của họ. Ngôn ngữ trần thuật Quá trình tìm hiểu, khám phá giá trị của tác phẩm văn học không thể tách rời những vấn đề của ngôn ngữ nghệ thuật, đặc điểm kết cấu ngôn từ của tác phẩm. Toàn bộ cấu trúc ngôn từ được tổ chức dưới những hình thức khác nhau trong tác phẩm và tất cả các thành phần của cấu trúc ấy có một mối quan hệ tương tác chặt 20 chẽ, thực hiện những chức năng nhất định trong một chỉnh thể thống nhất. Việc tìm hiểu mối liên hệ ấy là hết sức cần thiết trong quá trình phân tích và cảm thụ tác phẩm văn học. Dễ nhận thấy rằng, trong mối quan hệ mật thiết với các cấp độ, các thành tố khác của tác phẩm như hệ thống hình tượng, các lớp nội dung ý nghĩa, ngôn từ nghệ thuật có chức năng mã hóa, hiện thực hóa các thành tố nói trên. Nó là phương tiện biểu đạt hệ thống hình tượng cũng như toàn bộ những tư tưởng, quan niệm của tác giả. Bằng ngôn từ nghệ thuật, qua ngôn từ nghệ thuật, tài năng và phong cách tác giả mới được kiểm chứng, được định hình. Hơn nữa, khi bước vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm, yếu tố đầu tiên chúng ta tiếp xúc chính là ngôn ngữ. Bởi thế, ngôn ngữ được coi “là công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học” [29, nó được xem là “yếu tố thứ nhất của văn học” M. Gorki. Một nhà văn đích thực phải tự ý thức về mình như một nhà ngôn ngữ vì ngôn ngữ là “yếu tố đầu tiên quy định cung cách ứng xử” [81, của anh ta, là phương tiện bắt buộc để anh ta giao tiếp với bạn đọc. Tuy nhiên ở mỗi thể loại văn học, ngôn ngữ lại có những đặc trưng riêng. Nếu như kịch chủ yếu sử dụng ngôn ngữ đối thoại, thơ trữ tình khai thác ngôn ngữ ở phương diện bộc lộ cảm xúc thì văn xuôi tự sự là ngôn ngữ trần thuật. So với ngôn ngữ thơ ca, ngôn ngữ văn xuôi có phạm vi hoạt động tự do, dân chủ và linh hoạt hơn. Ngôn ngữ trần thuật là ngôn ngữ đa dạng, ngôn ngữ của nhiều tính cách bao gồm ngôn ngữ của người trần thuật, ngôn ngữ nhân vật và lời nói nước đôi. Trong đó, ngôn ngữ người trần thuật, ngôn ngữ nhân vật giữ vai trò quyết định tạo nên giá trị nghệ thuật của tác phẩm tự sự. Ngôn ngữ người trần thuật “là phần lời văn độc thoại thể hiện quan điểm tác giả hay quan điểm người kể chuyện sản phẩm sáng tạo của tác giả đối với cuộc sống được miêu tả, có những nguyên tắc thống nhất trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn ngữ” [29, Ngôn ngữ trần thuật chẳng những có vai trò then chốt trong phương thức tự sự mà còn là yếu tố cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính của tác giả. Ngôn ngữ nhân vật “là lời nói của nhân vật trong các tác phẩm thuộc các loại hình tự sự và kịch” [29, Ngôn ngữ nhân vật chính là một trong các phương
Lượt xem 413 The narrative structures of Vietnamese novels during the period of 1986-2000 Thạc sĩ PHẠM THỊ THÙY TRANGTrường Đại học Sư phạm TÓM TẮT Kết cấu trần thuật KCTT là sự liên kết giữa các yếu tố hình thức trong một truyện kể để tạo thành một chỉnh thể tác phẩm nghệ thuật. Vấn đề xây dựng KCTT liên quan mật thiết đến hình tượng người kể chuyện. Tiểu thuyết Việt Nam trong giai đoạn 1986-2000 đã cho thấy sự biến hóa linh hoạt của các hình thức KCTT nhằm đáp ứng nhu cầu thay đổi của nhận thức văn học và sự vận động của đời sống thời kì đổi mới sau chiến tranh. Từ khóa kết cấu trần thuật, tiểu thuyết Việt Nam. ABSTRACT The narrative structure is the link between formal factors of a narrative that forms a complete literary work. The construction of the narrative structure is closely related to the narrator. Vietnamese novels during the period of 1986-2000 demonstrate the flexible evolution of narrative structures to adapt to changes in the readers’ mindset in literacy cognition and life in the period of reforms after war. Keywords narrative structure, Vietnamese novel. xx x 1. Khái niệm kết cấu trần thuật trong tác phẩm tự sự Có nhiều cách hiểu về kết cấu. Theo các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học thì “kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm”. Kết cấu có vai trò quan trọng trong tổ chức văn bản của một tác phẩm. “Bất cứ tác phẩm văn học nào cũng có một kết cấu nhất định. Kết cấu là phương tiện tất yếu và cơ bản của khái quát nghệ thuật. Kết cấu đảm nhận các chức năng rất đa dạng bộc lộ tốt chủ đề và tư tưởng các tác phẩm, triển khai trình bày hấp dẫn cốt truyện, cấu trúc hợp lí hệ thống tính cách, tổ chức điểm nhìn trần thuật của tác giả, tạo ra tính toàn vẹn của tác phẩm như là một hiện tượng thẩm mĩ” [2, Cũng có quan điểm tương tự với các tác giả trên, Lại Nguyên Ân cho rằng “Kết cấu là sự sắp xếp, phân bố các thành phần hình thức nghệ thuật, tức là sự cấu tạo tác phẩm, tùy theo nội dung và thể tài. Kết cấu gắn kết các yếu tố của hình thức và phối thuộc chúng với tư tưởng. Các quy luật của kết cấu là kết quả của nhận thức thẩm mĩ, phản ánh những liên hệ bề sâu của thực tại. Kết cấu có tính nội dung độc lập, các phương thức và thủ pháp kết cấu sẽ cải biến và đào sâu hàm nghĩa của cái được mô tả” [1, Ý nghĩa quan trọng nhất của kết cấu là tổ chức các thành phần của truyện kể tạo thành một chỉnh thể hoàn chỉnh về nội dung lẫn hình thức. “Ngoài bố cục, kết cấu còn bao gồm tổ chức hệ thống tính cách, tổ chức thời gian và không gian nghệ thuật của tác phẩm; nghệ thuật tổ chức những liên kết cụ thể của các thành phần cốt truyện, nghệ thuật trình bày, bố trí các yếu tố ngoài cốt truyện… sao cho toàn bộ tác phẩm thực sự trở thành một chỉnh thể nghệ thuật” [2, Theo nhà lí luận hiện đại Iu. Lotman, KCTT là một phương tiện biểu đạt và biểu hiện. Ông cho rằng mỗi truyện kể sujet đều có thể được xác định trong một kết cấu hoàn chỉnh nhất định, đó là khung “vấn đề khung – tức là vấn đề ranh giới chia tách văn bản nghệ thuật với cái không phải văn bản – luôn luôn thuộc loại những vấn đề then chốt. Cùng là những câu chữ tạo ra tác phẩm như thế, vậy mà chúng sẽ được chia thành những yếu tố truyện kể theo những cách thức khác nhau, tùy thuộc vào đường kẻ ngăn cách văn bản với cái không phải văn bản được vạch ra ở chỗ nào. Những gì nằm phía ngoài đường kẻ ấy đều không nhập vào cấu trúc của một tác phẩm cụ thể hoặc nó không phải là tác phẩm, hoặc nó thuộc một tác phẩm khác”. Và một truyện kể bao gồm hai bình diện mà ông gọi là “bình diện huyền thoại” và “bình diện cốt truyện”. “Có thể gọi bình diện mà qua đó văn bản mô hình hóa toàn bộ thế giới là bình diện huyền thoại. Bình diện thứ hai chỉ phản ánh một phần nào đó của hiện thực – gọi là bình diện cốt truyện. Cần lưu ý là có những văn bản nghệ thuật chỉ quan hệ với hiện thực theo nguyên tắc huyền thoại … Nhưng chắc chắn là không thể có những văn bản nghệ thuật chỉ kiến tạo theo mỗi một nguyên tắc cốt truyện”. Cốt truyện trong cách hiểu của chính là việc tổ chức KCTT trong một truyện kể. Và “bình diện huyền thoại hóa của văn bản được gắn chặt trước hết với khung, trong khi đó, bình diện cốt truyện lại luôn luôn có khuynh hướng phá vỡ nó. Văn bản nghệ thuật hiện đại thường được xây dựng trên sự xung đột giữa các xu hướng ấy, trên trương lực cấu trúc giữa chúng”. Ở đây có thể hiểu rằng bình diện huyền thoại cho thấy phạm vi phản ánh của văn bản so với thế giới hiện thực bên ngoài, còn bình diện cốt truyện lại có khuynh hướng kiến tạo những chỉnh thể hoàn toàn mang tính nghệ thuật dựa trên sự trình bày, sắp xếp một trật tự trần thuật, chống lại cơ chế “sao chép”, “rập khuôn” hiện thực, nhằm tạo ra một thế giới nghệ thuật độc lập, đa nghĩa. Ngoài ra, ông nhìn nhận “Khung của tác phẩm văn học được tạo thành bởi hai yếu tố mở đầu và kết thúc”. Trong đó, tiến trình sự kiện trong một truyện kể thực chất là sắp xếp một trật tự trần thuật để đạt được những mục đích nghệ thuật nhất định “Trong tác phẩm nghệ thuật, tiến trình sự kiện dừng lại đúng vào thời điểm trần thuật kết thúc …Điều đó thể hiện bản chất hai mặt của mô hình nghệ thuật khi phản ánh một sự kiện riêng lẻ, nó đồng thời phản ánh toàn bộ bức tranh thế giới, khi kể lại số phận bi thảm của nữ nhân vật, nó đồng thời trần thuật về trạng thái bi kịch của thế giới nói chung. Cho nên, với chúng ta, một kết cục tốt đẹp hay tồi tệ có ý nghĩa rất quan trọng. Nó không chỉ chứng tỏ truyện này hay truyện kia đã hoàn kết, mà còn cho thấy cấu trúc của thế giới nói chung”. Như vậy, việc kiến tạo nên một văn bản truyện kể phụ thuộc rất nhiều vào trật tự trần thuật. Trật tự này sẽ quyết định đến ý nghĩa của tác phẩm [7, Đối với những tác phẩm tự sự cỡ lớn như tiểu thuyết thì kết cấu càng có ý nghĩa quan trọng. Bởi vì trong khi lựa chọn một KCTT nhất định, người viết phải đồng thời mở rộng tối đa khả năng biểu hiện của nó “Mặt quan trọng nhất của kết cấu, nhất là trong các tác phẩm tự sự cỡ lớn, là trình tự của việc đưa các miêu tả vào văn bản phải khiến cho nội dung nghệ thuật luôn luôn được khai triển. Nếu trước khi văn bản chấm dứt mà hàm nghĩa đã cạn kiệt, hoặc hàm nghĩa còn chưa đủ bộc lộ – thì đó là thiếu sót của kết cấu” [1, Kết cấu có tính hình thức do luôn gắn với các yếu tố hình thức song vẫn mang tính nội dung. Xét đến cùng, cách tổ chức một kết cấu văn bản liên quan đến vấn đề người kể chuyện. Nhà văn xây dựng nên hình tượng người kể chuyện và trao quyền cho anh ta sắp xếp, tổ chức nên truyện kể. Chính anh ta sẽ quyết định thứ tự xuất hiện của nhân vật, của sự kiện, tình huống sao cho câu chuyện kể lại trở nên hấp dẫn và cuốn hút nhất. Nói cách khác, trong một văn bản truyện kể, vai trò sắp xếp, tổ chức để cấu tạo tác phẩm thường là vai trò của người kể chuyện. Truyện kể vì vậy mang tính chất hư cấu và in đậm dấu ấn của người kể chuyện. Đây là một chỉnh thể tác phẩm mang tính nghệ thuật chứ không còn là những chuyện vụn vặt, hỗn tạp của đời sống. Nhiệm vụ hàng đầu của KCTT là giải quyết mối tương quan giữa thời gian cốt truyện thời gian câu chuyện và thời gian trần thuật thời gian truyện kể theo một trật tự sau trước. Trong tác phẩm văn học, điểm mở đầu và kết thúc của trần thuật không phải bao giờ cũng trùng hợp với điểm mở đầu và điểm kết thúc của cốt truyện. Sự so le giữa phạm vi đầu cuối của trần thuật so với cốt truyện tạo cho trần thuật những khả năng biểu hiện to lớn. Với tiểu thuyết thời kì đổi mới, người đọc khó phân định ranh giới giữa các kiểu kết cấu; khó xác định tác phẩm có kết cấu gì, nhất là khi cấu trúc truyện thường được người kể chuyện xáo tung với nhiều thủ pháp trần thuật mới mẻ. Nhưng dù ở dạng thức kết cấu nào, hầu hết các tác phẩm đều có kết thúc mở. Nhằm khẳng định tính chất không hoàn kết của đời sống, tiểu thuyết luôn hướng đến một “kết cấu vẫy gọi” nhằm phát huy tối đa khả năng đồng sáng tạo của người đọc. Vai trò của người kể chuyện trong việc cấu trúc truyện kể, tổ chức thời gian trần thuật nhằm đem lại một hiệu quả trần thuật cao nhất là điều không thể phủ nhận trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 2. Kết cấu trần thuật trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 2000 Từ sau 1975, nhất là trong thời kì đổi mới, thực tiễn văn học đã theo sự chi phối chung của quy luật thời bình, nghiêng về thể tài thế sự, đời tư. Trong tác phẩm văn học, không phải cốt truyện nào cũng chứa đựng những tình huống gay cấn với những xung đột gay gắt mà có những câu chuyện về những cái bình thường, nhỏ nhặt, gây cảm giác như là không có chuyện. Chính những bước ngoặt của trạng thái tâm linh, những xung đột cá nhân đã trở thành yếu tố thúc đẩy sự hình thành của cốt truyện. Tiểu thuyết từ sau đổi mới đa dạng hơn về nội dung phản ánh, phong phú hơn trong hình thức diễn đạt, tự do hơn trong các cách thức dựng truyện. Bên cạnh nhữnng truyện kể giàu kịch tính là những truyện kể giàu tâm trạng. Có những kết cấu truyện rõ ràng, mạch lạc, có mở đầu, có kết thúc, cũng có những tiểu thuyết cấu trúc lỏng lẻo, lắp ghép, kết thúc mở. Bên cạnh những tiểu thuyết tôn trọng kết cấu truyền thống là những kết cấu mang hướng hiện đại. Về đoạn kết của tiểu thuyết, có mô hình kết thúc có hậu, các vấn đề được giải quyết một cách hoàn tất, trọn vẹn. Có đoạn kết với kết thúc bỏ ngỏ, không hoàn kết. Tất cả các dạng thức trên đều nhằm phân tích, lí giải những vấn đề phức tạp và bí ẩn của con người, cuộc sống đương đại. Nghệ thuật trần thuật trong tiểu thuyết giai đoạn này đã tiếp thu nhiều kĩ thuật mới từ văn học hiện đại thế giới. Nghệ thuật đồng hiện, kĩ thuật độc thoại nội tâm, dòng ý thức, lắp ghép, nghệ thuật gián cách, đa giọng điệu… là những vấn đề còn mới mẻ trong văn xuôi Việt Nam đã được tiểu thuyết sử dụng, biến hóa một cách linh hoạt và uyển chuyển trên tinh thần dân tộc hiện đại. Trong đội ngũ những người viết tiểu thuyết, có không ít tác giả đã cố gắng đổi mới tư duy tiểu thuyết, tìm một hướng đi mới trong sáng tạo thể loại, như Ma Văn Kháng, Nguyễn Trí Huân, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái… Những cây bút trên đã cố gắng cách tân trong sáng tạo những tiểu thuyết có cốt truyện lỏng lẻo, mơ hồ, co giãn, khó nắm bắt, khó kể lại. Cấu trúc tác phẩm được lắp ghép, chắp nối từ những mảnh vụn hiện thực. Ở dạng trần thuật này, người kể chuyện thường chỉ làm một thao tác là lắp ghép những mảnh rời rạc, đứt đoạn ngỡ như không liên hệ với nhau nhưng lại là những mẩu chuyện nhỏ hoàn chỉnh khi được xâu chuỗi và cùng thuộc về một câu chuyện duy nhất của chỉnh thể truyện kể. Ở nhiều tác phẩm, tính chất lắp ghép, phi tuyến tính thể hiện rõ qua sự độc lập giữa các chương với những sự kiện bị tách rời, những câu chuyện bị bỏ lửng lơ. Với lối trần thuật lắp ghép cấu trúc lập thể, việc rút gọn hoặc đảo lộn trật tự các thành phần của truyện hầu như không làm tổn hại đến kết cấu văn bản. Đây chính là một trong những kiểu kết cấu thể hiện rõ những cách tân nghệ thuật của tiểu thuyết đương đại. Trong nhiều tiểu thuyết, nghệ thuật lắp ghép không lộ rõ trên bề mặt văn bản với những đường biên lộ diện, mà cách cắt dán chìm vào mạch ngầm văn bản. Kết cấu tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh là một ví dụ. Trong văn bản truyện kể, những diễn biến của hiện thực chiến tranh và hiện thực tâm hồn vận động không theo một trật tự nào, chỉ là những mảng ghép nối đứt quãng của hồi ức, giấc mơ và những cơn hoảng loạn của Kiên. Các sự kiện trong Nỗi buồn chiến tranh được tổ chức không theo quan hệ nhân quả, từng mảnh đời nhân vật bị chia cắt ra, bị phân tán vào kí ức lộn xộn, chắp nối và rời rạc của nhân vật chính. Cốt truyện là một bức tranh lắp ghép mà các mảnh vỡ bị đảo lộn lên, bị tung ra, lật nhào toàn bộ thứ tự, vị trí ban đầu của nó. Đến đây, có cảm giác như văn học đã gần với các thủ pháp cắt xén, lắp ghép hình ảnh trong điện ảnh. Hiện tượng phân rã cốt truyện thể hiện cuộc sống trong hiện tại không phải lúc nào cũng xuôi chiều, hạnh phúc, bình yên của những con người đã trải qua chiến tranh. Thiên sứ của Phạm Thị Hoài xứng đáng được coi là tác phẩm quan trọng với ý nghĩa đề xuất một tinh thần thẩm mĩ mới, một mô hình tiểu thuyết mới, phá vỡ quan niệm thể loại quen thuộc. Câu chuyện là sự lắp ghép đầy ngẫu hứng những mảnh vụn của hiện thực, không tuân theo logic nhân – quả. Ý thức cách tân nghệ thuật, đổi mới tư duy tiểu thuyết là nỗ lực sáng tạo đáng kể của các cây bút tiểu thuyết nhằm biểu đạt tâm hồn con người thời đại. Trong các tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh Bảo Ninh, Chim én bay Nguyễn Trí Huân, Ăn mày dĩ vãng Chu Lai, Một ngày và một đời Lê Văn Thảo, Những mảnh đời đen trắng Nguyễn Quang Lập…, các cây bút đã sử dụng thủ pháp đồng hiện thời gian và kĩ thuật dòng ý thức trong cấu trúc tác phẩm. Một trong những hình thức mở rộng giới hạn thời gian của truyện kể là đồng hiện thời gian. Với hình thức này, dòng tâm tư, quá khứ, hiện tại, tương lai đều xuất hiện cùng một lúc, không bị ngăn cách, liên tục như một dòng chảy. Tổ chức thời gian đồng hiện theo kĩ thuật điện ảnh, trong một chừng mực nhất định, được xem như là chiến lược trần thuật của các tác giả, nhằm soi chiếu cặn kẽ con người hiện đại với nhiều chiều kích. Nhờ hình thức đồng hiện này, người kể chuyện có thể nối kết những chuyện thuộc về những khoảng thời gian khác nhau, rút ngắn thời gian kể. Thời gian đồng hiện xuất hiện phổ biến ở tiểu thuyết dòng ý thức, chủ yếu hướng tới tái hiện đời sống nội tâm, cảm xúc, liên tưởng. Kĩ thuật dòng ý thức thể hiện tham vọng của người nghệ sĩ trong việc tái hiện thế giới bên trong con người một cách chân thực. Phá vỡ trật tự thời gian thông thường, kết cấu dòng ý thức ở nhiều tiểu thuyết là hệ quả của việc tạo ra một thời gian trần thuật chỉ phụ thuộc vào thời gian tâm trạng, vào dòng tâm tư của nhân vật. Những yếu tố mang tính chất tự sự, những hành động bên ngoài được giảm thiểu nhường chỗ cho mạch cảm xúc, những suy nghĩ triền miên. Kéo theo sự trôi chảy của chuỗi kí ức và cả những mộng mị, hoảng loạn, câu chuyện cũng liên tục bị đứt quãng, dịch chuyển. Ở Việt Nam, từ lâu, kĩ thuật dòng ý thức đã góp phần làm nên những thành công trong nghệ thuật kể chuyện tiểu thuyết Nam Cao thời kì 1930 – 1945, tiểu thuyết của Nguyễn Minh Châu ngay trước thời kì đổi mới. Tuy nhiên, phải đến những năm sau đổi mới, kĩ thuật dòng ý thức mới được sử dụng như một phương thức trần thuật phổ quát khi đào xới tâm hồn con người, tạo nên những độ lệch của thời gian trần thuật và thời gian sự kiện. Trong Chim én bay của Nguyễn Trí Huân, quá khứ đậm nhạt luôn có mặt trong hiện tại, thời gian luôn luôn chuyển động, thay đổi theo dòng hồi ức, tạo điều kiện cho nhà văn đi sâu vào diễn biến tâm lí phong phú và phức tạp của nhân vật. Trong Một ngày và một đời, Lê Văn Thảo đã làm sống dậy cuộc đời của một nữ chiến sĩ biệt động vô danh bằng cách lắp ghép những mảnh vụn của quá khứ qua lời kể, trí nhớ của các nhân vật, với sự di chuyển điểm nhìn liên tục. Trong Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập, sự đan xen giữa mảng kí ức, kỉ niệm và những sự kiện hiện tại qua cái nhìn của Hoàng, Thùy Linh và những nhân vật khác tạo nên những góc nhìn đa dạng về hiện thực cuộc sống và con người ở một vùng hậu phương suốt chiều dài chiến tranh. Tiêu biểu cho những tiểu thuyết viết theo dạng thức thời gian đồng hiện và kĩ thuật dòng ý thức là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. Nỗi buồn chiến tranh được mở đầu bằng hành trình đi tìm hài cốt đồng đội của Kiên ở truông Gọi hồn vào mùa khô đầu tiên sau chiến tranh. Bắt đầu thời điểm này, nhà văn đã để cho dòng ý thức của Kiên trôi triền miên trong quá khứ với những hồi ức, những mộng mị về cuộc chiến, về tình yêu… Hòa bình lập lại nhưng tâm hồn Kiên thì đã ngưng bước ở những ngày tháng chiến tranh trong quá khứ. Đối với Kiên, chỉ có “kí ức tình yêu và kí ức chiến tranh” mới “giúp anh thoát khỏi cái tầm thường, bi đát của số phận anh sau chiến tranh”. Dòng ý thức tổ chức hồi tưởng, tổ chức con đường đưa nhân vật vào quá khứ. Quá khứ tồn tại song song với hiện tại, thậm chí trở thành một phần của hiện tại. Thời gian quá khứ trong tác phẩm thường là những hồi ức về chiến tranh. Kết cấu dòng ý thức thể hiện sức ảnh hưởng dài lâu của chiến tranh trong tâm linh và suy nghĩ, tình cảm và tâm lí hàng ngày của những con người đang sống, những con người đã từng trải qua những tháng năm binh lửa khốc liệt. Xu hướng lắp ghép liên văn bản cũng là một trong những yếu tố không thể không nói đến trong KCTT của tiểu thuyết thời kì đổi mới. Tiểu thuyết được viết một cách tự nhiên, không bị ràng buộc bởi thi pháp truyền thống. Tiểu thuyết hình thành bằng cách lắp ghép, tạo dựng các mảnh sự kiện, các mảnh tâm trạng, không theo trình tự thời gian mà ngổn ngang, đảo ngược theo ý đồ của tác giả, tạo ra “truyện trong truyện”. Những tình huống, những cảnh ngộ, biến cố như không quan hệ, liên đới xích lại gần với nhau. Cùng với sự lắp ghép đó là sự di chuyển điểm nhìn, là tư duy nghệ thuật trong sự quy ước vừa chặt chẽ, vừa co giãn của cấu trúc thể loại. Sự thâm nhập của các thể loại khác vào tiểu thuyết cũng là một nhân tố làm co giãn cấu trúc tiểu thuyết. Tiểu thuyết thời kì đổi mới có thể chứa trong nó nhật kí, chuyện kể, thư từ, thơ, “tham luận khoa học”, huyền thoại, điển tích, điển cố… Những hình thức văn bản trong văn bản góp phần tạo thành tiếng nói khác nhau trong tiểu thuyết, nới rộng cấu trúc thể loại, đa dạng hóa các phương thức trần thuật, mở rộng trường nhìn Thiên sứ, Lời nguyền hai trăm năm, Ngược dòng nước lũ, Cơ hội của Chúa…. Ở đây, tiểu thuyết giai đoạn này đã cho thấy sức ôm chứa rộng lớn và sự tự do của thể loại. “Tiểu thuyết có một khả năng điều hợp kì lạ trong khi thơ hay triết học không thể điều hợp tiểu thuyết thì tiểu thuyết lại có thể điều hợp cả thơ lẫn triết học mà không vì thế đánh mất đi cái bản sắc đặc trưng bởi chính xu hướng bao gộp vào mình những thể loại khác … có nghĩa là huy động mọi phương diện trí tuệ và mọi hình thức để soi sáng “cái điều mà chỉ có tiểu thuyết mới khám phá ra được” sự sinh tồn của con người. Đương nhiên điều đó tất phải kéo theo một sự thay đổi sâu sắc hình thức tiểu thuyết” [4]. 3. Kết luận Nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới không thể không ghi nhận những cách tân về nội dung và hình thức thể hiện của các tiểu thuyết gia đương thời. Trong đó, sự thể nghiệm những kĩ thuật trần thuật mới cũng như sự mạnh dạn tạo ra những bước tiến trong kết cấu tác phẩm đã tạo nên một diện mạo mới cho tiểu thuyết, góp phần phát huy những thế mạnh vốn có của thể loại. Ở đây vấn đề không chỉ đơn thuần là sự tìm tòi, lạ hóa mà còn là sự thay đổi quan niệm về thể loại nhằm vươn tới tầm vóc của tiểu thuyết và tầm đón đợi của người đọc trong tương lai. Sự đổi mới tiểu thuyết, vì vậy, vừa hướng tới chủ thể sáng tạo, vừa hướng đến chủ thể tiếp nhận. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân 2004, 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Sinh chủ biên 2004, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục. 3. Nguyễn Thái Hòa 2006, Từ điển tu từ – Phong cách – Thi pháp học, Nxb Giáo dục. 4. Kundera M. 2009, “Ghi chép nảy sinh từ “Những kẻ mộng du””, Nguyên Ngọc – Tác phẩm tập 3, 5. Nguyễn Văn Long 2003, Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục. 6. Phương Lựu chủ biên 2003, Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. 7. Lã Nguyên tuyển dịch 2012, Lí luận văn học – Những vấn đề hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 8. Trần Đình Sử chủ biên 2007, Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử tập 1, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 9. Trần Đình Sử chủ biên 2008, Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử tập 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 10. Nguyễn Văn Tùng tuyển chọn 2008, Tuyển tập các bài viết về tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục. Nguồn Tạp chí Khoa học Đại học Sư Phạm TP. HCM, số 166, năm 2015 Thánh Địa Việt Nam Học
các phương thức trần thuật